Văn hóa và con người tây nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000 - 23


đứng lên: “Cho lửa ăn cái rừng, tỉa lúa, tỉa bắp xuống”[26, tr. 224], “Bom nổ ra lửa. Lửa ăn cả rừng, cả người”[26, tr.225]Nếu người miền Bắc hay dùng từ “cực kỳ”, người miền Nam dừng từ “lắm” thì người Tây Nguyên dùng từ “hung” để chỉ mức độ: “Pháp thù Kông Hoa hung rồi”[26, tr. 245], “Sư đoàn mắc mớ chuyện gì hung rồi”[94, tr. 86], “Đừng nói thế! Mình mắc cỡ hung rồi đó”[5, tr. 82] v.v…Một điểm đáng chú ý về mặt từ ngữ nữa là khi muốn thể hiện ý phủ định, người Tây Nguyên rất hay dùng từ “tầm bậy tầm bạ”. Chung (Người trong cuộc- Trung Trung Đỉnh) luộc sắn nhưng không gọt vỏ, Phiêng la: “Anh tầm bậy tầm bạ lắm”[6, tr. 15]. Khi Phạm Luận hỏi Kơ Tít (Chớp trên đỉnh Kon từng- Trung trung Đỉnh) “Có phải cháu làm tượng này không?”, Kơ Tít trả lời: “Đâu phải mình làm. Tầm bậy tầm bạ”[6, tr.255]. Bình (Lạc rừng- Trung trung Đỉnh) trong một lễ hội đã “thừa cơ chộp ngực cô”, BDên phản ứng: “Tầm bậy tầm bạ cái tay này”[5, tr. 107]. Nhiều khi họ dùng cụm từ này một cách máy móc, điều đó càng bộc lộ được sắc thái của người Tây Nguyên mà nhà văn chủ ý tạo ra.

Người Tây Nguyên sử dụng tiếng phổ thông như là một “ngoại ngữ” nên có nhiều cách nói ngây ngô hoặc không đúng trật tự ngữ pháp: “Sao trước bốn xung quanh chịu đi xâu hết. Núp như hòn đá giữa suối nước, cũng phải chịu đi xâu. Bây giờ bốn xung quanh cũng chịu đi xâu, Núp lại không chịu đi?”[26, tr. 264], “...Khiêng con heo rừng. Mình bắn chết ngoài suối. To, bốn người không được khiêng đâu”(không được khiêng đâu tức không khiêng được đâu)[26, tr. 177]. “Anh Chung tốt tình cảm, tui ưng anh nhiều lắm”[5, tr. 35]. Ngay cả lời của nhân vật người kể chuyện cũng sử dụng cách nói như vậy để phù hợp với lời trực tiếp: “Đê Khưu dừng lại trước mặt Núp và Liêu, tay nắm cái cây bên đường, mồ hôi chảy ròng ròng, miệng nói một nửa, thở một nửa”[26, tr. 254]. Với lối tư duy cụ thể, họ cũng thường có cách nói cụ thể, rõ ràng về số lượng: “Đồng bào bỏ đi làm rẫy bảy ngày, vô núi xa chặt cây to, cắt tranh về làm năm


cái nhà dài cho bộ đội ở, năm cái nhà kín cho bộ đội làm kho”[26,tr. 273], “Cha nó chết, để lại cho nó gần bảy mươi cái nồi đồng, mười bốn con trâu”[26, tr. 281]. Khi số lượng lớn, không thể đếm được thì họ mới dùng từ chỉ số nhiều: “Cái rẫy của anh Núp tốt quá, to quá, to nhất làng Kông Hoa. Bề dài nhiều sải tay lắm, đếm lộn nhiều lần, đếm không hết. Bề ngang cũng nhiều sải tay lắm, đếm không hết”[26, tr. 223]...Rõ ràng đây là cách nói rất gần với ngôn ngữ đời sống.

Không có khả năng gọi tên và diễn đạt những vấn đề trừu tượng với ý nghĩa sâu xa, người Tây Nguyên cũng không có lối nói ẩn ý mà chỉ theo nghĩa thông thường, nghĩa tường minh. Nói với một người hay với đám đông đều phải đơn giản như vậy. Để khen Núp là người tốt, bok Pa nói: “Núp con người tốt, biết làm ăn, thanh niên trong làng làm rẫy không ai bằng Núp. Lũ làng có ai đau. Núp trước tiên đi vô rừng hái lá tốt về cho uống mau lành… Con người có cái tay giỏi, đan cái gùi cũng được, đan cái rổ cũng được. Già làng nói biết nghe lời, tốt lắm!...”[26, tr. 224]. Vậy đấy, cái tốt phải được biểu hiện một cách rõ ràng. Hay Núp nói với anh Thế về “con đường xấu”: “Con đường tôi đi xấu lắm. Hòn đá to, cái dốc cao, con cọp nhiều, con voi nhiều, con vắt cắn chảy máu”[26, tr. 363]. Câu nói “văn vẻ” nhất của Núp (cũng là câu nói văn vẻ nhất trong toàn bộ lời nói trực tiếp trong Đất nước đứng lên) cũng chỉ là:

“Trong núi có nhiều con đường, có con đường tốt đi lên núi cao, có con đường xấu đi xuống hố sâu. Núi cao có mặt trời, hố sâu có con rắn độc. Người Hà Ro lâu nay chưa biết do lỗ tai chỉ nghe theo Pháp, chưa được nghe theo Bok Hồ. Người Hà Ro đi con đường xấu rồi. Bây giờ nó đã thấy con rắn, nó muốn đi lên con đường tốt, mình có cho nó đi không?”[26, tr 454].

Do vốn ngôn ngữ phổ thông hạn chế, những từ ngữ xa lạ hoặc quá trừu tượng đều phải được cụ thể hóa: Độc lập: không đi xâu, không nộp thuế cho


Pháp, muốn làm rẫy, cứ làm, muốn đi săn, cứ đi, đi lấy mật, lấy sáp con ong trong rừng, cứ đi. Chính phủ là nhiều người đất nước mình, Bana, Êđê, Kinh, M’nông, Sê Đăng...đứng ra coi chung đất nước mình”[26, tr. 258- 259]. Lời nói trừu tượng, nhiều nghĩa, ẩn ý đều là lời của nhân vật người kể chuyện: “Vùng giải phóng từ phía Bắc lan vào, lan tới đâu hoa mùa xuân nở tới đó. Buổi sáng đó hoa nở trên núi Chư Lây, đỏ và trắng, chấm phá đây đó trên màu xanh bao la của núi rừng, như những đoá hoa của của một chị phụ nữ Bana khéo tay dệt trên một tấm váy màu chàm rất lớn” ”[26, tr. 469].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

Ngoài ra, để tạo nên sắc thái riêng của từng người, các tác giả cũng rất chú ý đến vấn đề cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật. Khó có thể nhầm lẫn ngôn ngữ của cụ Mết với các nhân vật khác. Những câu nói của cụ thường rất ngắn gọn và chắc, phù hợp với tư thế của một thủ lĩnh. Ví dụ, cụ Mết không bao giờ khen “Tốt! Giỏi”, những khi vừa ý nhất ông chỉ nói “Được”. Hoặc những lời nói của cụ đều có tính chất mệnh lệnh: “Cấp chỉ huy cho về mấy đêm? Một đêm à, được! Cho một đêm về một đêm, cho hai đêm về hai đêm, phải chấp hành cho đúng. Đêm nay mày ở nhà tau”[26, tr. 140]. Ngược lại, nhân vật quần chúng có lời nói bỗ bã hơn: “Con cháu! Ma bắt mày, thằng quỷ!…Mày không chờ tau chết rồi hãy về một thể có được không!”[26, tr. 138]. Nhân vật Núp cũng có đặc trưng ngôn ngữ, mỗi lời nói của Nup đều tỏ ra rất chín chắn, có chiều sâu và chứa đựng tinh thần cương quyết hoặc tình cảm nhân ái của một con người sẵn sàng hy sinh vì cộng đồng. Với vai trò và địa vị của mình, Núp rất ít dùng từ đệm trong câu nói. Ngược lại, những câu nói của các chị phụ nữ như Mai Du, Mai Liêu có rất nhiều từ đệm và thán từ. Bin trong Lạc rừng, Phiêng trong Người trong cuộc cũng có sắc thái ngôn ngữ rất riêng, thể hiện qua việc thường xuyên sử dụng thán từ “chô cha”, phụ từ chỉ mức độ“hung” và từ phủ định: “tầm bậy tầm bạ”. Việc cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật chỉ được chú ý ở sáng tác của Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh; các tác giả khác chưa thật sự rõ ràng ở


Văn hóa và con người tây nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000 - 23

phương diện này, ngay cả ở nhà văn là người Tây Nguyên như Y Điêng, H’Linh Niê.

3.4.2 Các biện pháp tu từ

Đối với một tác phẩm văn học, sử dụng càng nhiều biện pháp tu từ, giá trị nghệ thuật của tác phẩm càng tăng vì nó làm tăng khả năng biểu hiện của ngôn từ, ý nghĩa của nó càng phong phú, sâu sắc hơn. Trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên, các biện pháp tu từ được sử dụng khá phong phú như so sánh, nhân hóa, hoán dụ, ẩn dụ, ngoa dụ...Trong có hai biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất là so sánh và nhân hóa vì nó phù hợp với cảm quan của người Tây Nguyên. Con người Tây Nguyên thường nhìn sự vật hiện tượng theo lối so sánh, nhìn tự nhiên như có hồn vía như con người (quan niệm vạn vật hữu linh). Do vậy, so sánh và nhân hóa là những phương thức tu từ quen thuộc được các nhà văn vận dụng khá nhiều trong các tác phẩm.

Sự so sánh trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên có hai dạng. Ở lời trực tiếp, sự so sánh thường là trực quan, hình ảnh so sánh gần gũi trong đời sống hàng ngày của người Tây Nguyên, trong đó đá lửa được dùng nhiều nhất. Để chỉ sự lười biếng thì dùng hình ảnh bất động của hòn đá để so sánh: “Ghíp làm biếng như hòn đá”[26, tr. 271]; chỉ sự cô độc cũng ví với hòn đá giữa suối, con mang giữa làng: “Bây giờ Pháp đi đánh Kông Hoa nữa. Kông Hoa như hòn đá giữa suối, bốn phía toàn là nước, như con mang chạy lạc vào làng, bốn phía toàn là người”[26, tr. 249]; chỉ sự mạnh mẽ cũng dùng hòn đá: “Bàn tay gân guốc khi nói, cả nói với mẹ, đưa lên, đưa xuống chắc chắn, mạnh như hòn đá sắc ném xuống nước”[26, tr. 271]. Lửa cũng hiện hữu rất nhiều nên được sử dụng khá phong phú. Có khi nó được so sánh với cái ác: “Bụng nó như lửa, nó ác lắm”[26, tr. 303]; có khi để chỉ sự tàn lụi: “Lũ làng dần dần giải tán hết. Như một đống lửa tàn”[26, tr. 414]; chỉ sự giận dữ: “Hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”[26, tr.158]... Đối với người Tây Nguyên, để nói lên tính


cách hung dữ thì không có gì chính xác hơn hình ảnh con cọp, con beo: “Gió gầm như con cọp chạy ầm ầm”[26, tr. 287], “Khi nó nói chuyện Pháp nó như một con beo con, gầm gừ, dữ tợn”[26, tr. 365]. Diễn tả âm thanh, các tác giả cũng có lối so sánh hết sức đặc trưng: “Đêm đó, chị Liêu nằm nghe tiếng đàn Kơ si réo rắt như tiếng gió thổi qua rừng sim”[26, tr. 235], “Trong núi vang ra có tiếng đàn tơ rưng, nghe như tiếng gió thổi qua rẫy lúa chín”[26, tr. 250], “Chiêng arap Jrai phóng khoáng như đàn ngựa hoang tung vó”[24]. Trong các phương thức so sánh, chúng ta ít thấy lối so sánh lấy cái cụ thể để so sánh với cái trừu tượng, dạng như “Mái nhà dài như một tiếng chiêng”(Đăm San), mà thường lấy cái trừu tượng để so sánh với cái cụ thể: “Từ ngày đó, bụng Mí H’Bai như thân cây bị sâu đục”[8, tr. 6] “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”[26, tr. 146], “Trong lồng ngực em như có tiếng chày giã gạo buổi sáng”[7, tr. 23]. Nhìn chung trong lời nói hàng ngày, người Tây Nguyên làm nổi bật bản chất của sự vật thông qua sự so sánh. Họ thường lấy những yếu tố vật chất thông thường, tiếp xúc hàng ngày để so sánh với những vấn đề trừu tượng. Khi đó mọi thứ đều cụ thể hóa, rất dễ nắm bắt.

Ở lời gián tiếp, để phù hợp với sắc thái ngợi ca những con người vĩ đại trong cuộc cách mạng vĩ đại, sự so sánh thiên về tính kỳ vĩ, diễm lệ, bằng những hình ảnh có sức khái quát cao. Chẳng hạn cảm nhận của người Kông Hoa về Bác Hồ: “Bok Hồ như ông sao Bắc Đẩu. Ông sao đó đã mọc lên không bao giờ lặn nữa trong lòng đồng bào Kông Hoa”[26, tr. 360]. Sự cao cả, tầm vóc lớn lao của nhân vật cũng được so sánh với những hình ảnh to lớn, linh thiêng: “...Anh nhìn cụ Mết. Ánh lửa chập chờn soi hình ông cụ, làm cho thân hình vạm vỡ ấy trông kỳ ảo như một người anh hùng trong các bài hát suốt đêm Tnú đã nghe từ bé”[26, tr. 146]. Cụ Xớt cũng được so sánh như vậy: “Lưng vẫn đứng thẳng, cả người quắc thước như một ngọn núi đá. Giọng nói trầm như tiếng vang của núi đá”[26, tr. 248]. Già Kôi, bằng sự so sánh, hiện lên như một


ông tiên: “Ông già nhiều tuổi nhất buôn Rê băk, có mái tóc trắng như mây và giọng nói vang như chiêng” [34, tr. 69]. Đây là kiểu so sánh để lý tưởng hóa, khác với kiểu so sánh để bình thường hóa như ở trên. Với nghệ thuật so sánh, ngôn ngữ đời sống và ngôn từ nghệ thuật xích lại, và nhờ đó, hình tượng trở nên gần gũi hơn.

Ngoài so sánh, nhân hoá cũng được sử dụng khá nhiều. Điều này xuất phát từ đời sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên; xa hơn nữa nó cũng xuất phát từ cảm quan “vạn vật hữu linh” của người Tây Nguyên: “Mới hôm nào khu rừng vui, nay nó không thèm nói cười gì với em”[7, tr. 51]. Trong các vị thần, Rừng là thần thiện nên rất gần gũi và luôn hiểu tâm trạng con người. Con người luôn gắn bó với rừng, với thiên nhiên là vì vậy. Hãy nghe Bok Sung nói về núi rừng, đất, trời, sông, suối:

Núi thì có mật ong, có cây gỗ làm nhà, sông suối thì đem nước cho người uống, đem cá cho người ăn, và khi chảy mệt dừng lại nghỉ chân ở các bến có cây to thì trong lắm...Gió thì như anh chàng suốt lúa ăn no thì cầm ná đi săn trong núi, khi thì chạy mau, khi thì rón rén, rình mò từng gốc cây, nói thì thầm, sợ con thú rừng nghe nó chạy mất. Đá thì lười biếng quanh năm nằm ì một chỗ không muốn đi đâu. Nhưng cũng có khi trời tức giận, không biết giận cái gì. Nước to lên, chảy ào ào dưới suối, có khi chạy tuốt lên rẫy, lôi cả cây, cả lúa, cả người ném xuống sông Ba...Nhưng khủng khiếp nhất là đá giận. Đá giận thì đá chạy...Trước tiên nó xô mấy miếng đất dưới chân nó ra. Nó chuyển mình rồi bất thình lình nó lật ngược và vụt chạy xuống núi. Nó chạy mau không thể cái gì chạy theo kịp. Nó bẻ gãy hết cây nào cản đường nó...gặp con thú, nó đấm một cái, con thú chết bẹp ngay. Đến giữa đường gặp


đá bạn, đá con, nó thúc mỗi đứa một cái, tất cả ùa nhau chạy theo nó”[26, tr. 287].

Phép nhân hóa ở đây mang dấu ấn con người Tây Nguyên rất rõ. Thiên nhiên cũng giống như con người, có khi hiền hoà “trong veo”, có khi mạnh mẽ, hung dữ sẵn sàng cuốn phăng những thế lực hung bạo. Sự thân thiện với tự nhiên của con người cũng được biểu hiện qua lối nói nhân hóa. Vạn vật luôn tồn tại trong mối quan hệ khắng khít với người. Có khi con người tâm sự với rừng, với gió: “Khu rừng ơi, sao mày buồn lắm; gió đâu nói chuyện với lá cây đi. Nắng đâu, tắm cho đi nè và soi vào lòng ta đi”[7, tr. 53]. Có khi nói chuyện với đá: “Đúng rồi, đá của nước mình, mình phải nói cho đá tức Pháp, đánh Pháp mới được”[26, tr. 288]. Đá cũng như hiểu con người, đồng cảm với người: “Tảng đá lớn đứng ở đầu làng sừng sững nhìn từng người đi qua, như chào từng người, như đếm từng người...”[26, tr. 306]. Đá giúp người giấu vũ khí: “Núp, bok Pa, bok Sung đi một đêm vô rừng, giấu thùng đạn trong đó, gửi cho cái cây, hòn đá nó giữ giùm” [26, tr. 253]. Đá còn cùng người đánh Pháp: “Anh nói lũ người Bana biết ăn tro tranh trên núi, biết mặc vỏ cây, biết làm cho hòn đá, cho trái núi nó cũng giận Pháp, đánh Pháp; thằng Mỹ, thằng Diệm cũng không làm chi được người Bana đâu”[26, tr. 294]. Lúa thì càng thân thiết với người hơn: “Lúa vừa chín. Theo phong tục Bana, thanh niên, phụ nữ đi đốn tre, chẻ lạt, nối thành sợi dây dài, cột từ rẫy về tới làng để cho lúa biết đường đi về nhà”[26, tr. 252]. Cái khô hạn của miền núi Tây Nguyên được miêu tả hết sức chính xác: “Nắng như cầm lửa mà đổ xuống trên núi Chư Lây. Dưới suối nước đi trốn gần hết, dân làng phải dỡ từng hòn đá mới tìm được nước”[26, tr. 275]. Bến nước luôn hào phóng: “…Mùa hè nó đem cái mát, mùa lạnh nó cho hơi ấm cho dân làng”[7, tr. 138]. Suối nước thì biết đánh đờn: “Suối nước vừa đánh đờn chơi, vừa giữ rẫy cho mình”[26, tr. 315]. Và âm thanh của núi rừng có khi lấn át cả tiếng máy bay giặc: “Tiếng máy bay chìm mất trong tiếng nói chuyện


rì rào của ngàn, của vạn cây rừng trên núi Chư Lây”[26, tr. 464]. Sức mạnh của rừng có thể bao bọc chở che được cho con người: “Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã...Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho dân làng...”[26, tr. 133] v.v...Bút pháp nhân hóa đã giúp con người như được chạm vào cảnh vật, thấm thía được sự khắng khít giữa con người với thiên nhiên Tây Nguyên.

Cũng như phép so sánh, phép nhân hóa trong các tác phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa và tính cách con người Tây Nguyên. Với thế giới quan thần linh chủ nghĩa, tự nhiên, thiên nhiên Tây Nguyên đều có hồn và và nó là một thực thể không thể thiếu vắng trong đời sống của con người mà cuộc đời của họ gắn chặt với núi rừng. Nhờ có phép tu từ nhân hóa mà thiên nhiên Tây Nguyên đã trở nên sống động hấp dẫn và điều đó đã lột tả chính xác cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của người Tây Nguyên.

3.4.3 Câu văn

Trong các trang viết của Nguyên Ngọc, Trung trung Đỉnh, kiểu câu ngắn, nhịp điệu mạnh, dồn dập được sử dụng khá phổ biến. Đây là kiểu câu cần thiết và phù hợp với trình độ tư duy của người Tây Nguyên. Nói cần thiết là bởi vì để diễn tả không khí chiến trận dồn dập, hối hả bắt buộc nhà văn phải sử dụng câu ngắn, nhịp điệu mạnh. Việc sử dụng câu văn ngắn cũng phù hợp với trình độ tư duy của người Tây Nguyên. Do trình độ kinh tế kém phát triển, chữ viết chưa có hoặc có nhưng còn nghèo, giao tiếp ít dẫn đến vốn ngôn ngữ cũng bị hạn chế. Ngôn ngữ hạn chế nên khả năng tư duy cũng chỉ dừng lại ở cấp độ đơn giản. Và như thế người Tây Nguyên ít khi diễn đạt tốt những vấn đề phức tạp. Câu văn ngắn do đó là phù hợp nhất với họ. Trong Đất nước đứng lên, câu văn dài từ ba bốn dòng trở lên chiếm tỉ lệ rất thấp và nó chủ yếu là lời gián tiếp (trong các câu văn dài dấu phẩy được sử dụng rất nhiều). Ngược lại, câu ngắn chiếm đa số. Đoạn văn sau đây diễn tả không khí căng thẳng, hồi hộp của trận

Xem tất cả 222 trang.

Ngày đăng: 16/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí