Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa văn học - 15

Văn du ký của tác giả nữ trước hết là kết quả của việc người phụ nữ đi-đi ra khỏi nhà, đi xa hay gần nhưng để có trải nghiệm của con người xã hội. Những người phụ nữ Việt Nam truyền thống vốn sống trong những không gian khép kín, gọi là khuê phòng, khuê các. Cô gái thôn quê của chàng trai trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính cũng sống trong không gian khép kín mà chàng gọi một cách văn hoa là “khuê các” (Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau). Mở rộng hơn, họ sống trong không gian của cánh đồng quê, dòng sông, chợ quê. Những người phụ nữ trung lưu có thể đi xa theo chồng làm quan đây đó, nhưng trong thế phụ thuộc. Bản thân việc những người phụ nữ Việt Nam đi du lịch xa đã là một bước đột phá trong tư tưởng xã hội. Nhiều bậc cha mẹ, nhiều người chồng đã thấy cần tôn trọng quyền đi, quyền hiện diện trong không gian xã hội ngoài gia đình. Người phụ nữ đi du lịch là một trong những dấu hiệu quan trọng của hiện đại hóa xã hội. Trong tiểu thuyết và thi ca, chúng ta hầu như không bắt gặp những nhân vật phụ nữ hư cấu đi du lịch ngoại trừ kiểu nhân vật cô Tuyết giang hồ trong Đời mưa gió hoặc Tám Bính giang hồ trong Bỉ vỏ. Đi vẫn là độc quyền của nam giới: một ly khách trong Tống biệt hành của Thâm Tâm hay chàng Dũng trong Đoạn tuyệt của Khái Hưng-Nhất Linh. Nhưng văn du ký đã cho thấy có thực những người phụ nữ kiểu mới đi du lịch. Một khía cạnh mới của chủ nghĩa nữ quyền cần được phân tích. Chất lãng mạn của tâm hồn phụ nữ đi du lịch đã được chúng tôi điểm qua trong mục

3.2.1 nên ở mục này, chúng tôi chỉ chọn phân tích điểm nhìn về thân phận, hình ảnh người phụ nữ trong văn du ký của một tác giả nữ tiêu biểu là Nguyễn Thị Kiêm.

Có một sự tương ứng giữa việc Nguyễn Thị Kiêm thực hiện một cuộc hành trình từ miền Nam ra miền Bắc để cổ động việc đọc Phụ nữ tân văn và tuyên truyền cho nữ quyền với sự kiện Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn diễn thuyết cổ vũ cho thơ mới. Đây là người phụ nữ nhiệt thành cổ vũ cho cái mới. Tối ngày 26-7-1933 Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn. Đây là buổi diễn thuyết đầu tiên trong lịch sử đã 25 năm của Hội mà diễn giả là phụ nữ. Hai năm sau, tháng 11-1935, bà lại diễn thuyết một lần nữa về thơ mới tại Hội Khuyến học. Năm 1934, Nguyễn Thị Kiêm, Phan Thị Nga và chủ nhiệm báo lên đường đi ra Bắc để vận động cho báo Phụ nữ tân văn và chủ nghĩa nữ quyền. Theo bài viết Phái bộ của Phụ nữ tân

văn về tới Sài Gòn (số 265, ngày 8-11-1934), “ngoài sự đồng bào nam nữ ở Bắc mua báo Phụ nữ tân văn và cổ động giúp cho cơ quan nầy được thêm lực lượng ra, các nữ phái viên của bổn báo, cô Nguyễn Thị Kiêm và Phan Thị Nga đã bắt đầu thiệt hành một vài cái trách nhiệm trong chương trình phụ nữ chủ nghĩa…Có điều nầy là hiển nhiên: hai cô bạn Kiêm và Nga trong phái bộ của Phụ nữ tân văn đã gây được một cơ hội hay cho trào lưu của phụ nữ An Nam khắp ba kỳ”.

Đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, Nguyễn Thị Kiêm có nhiều cảm tưởng về mọi khía cạnh của thành phố cổ kính, từ các công trình lịch sử, các cảnh quan, đến con người, lối sống. Nhưng là một phụ nữ có tư tưởng nữ quyền, cô quan tâm nhiều hơn, có nhiều nhận xét đáng chú ý về người phụ nữ ở Hà Nội. Trong bài du ký dưới dạng một bức thư gửi cho chị Huê, Nguyễn Thị Kiêm kể lại các ấn tượng, suy nghĩ của mình về phụ nữ Hà Nội trong sự so sánh với phụ nữ Nam Kỳ. Chẳng hạn, bán kem ở bờ hồ Hoàn Kiếm “không phải là mấy chú Chệc tèm lem mộc mạc đẩy xe rung chuông, giữ độc quyền bán kem” mà “bán kem Hà Nội là mấy cô gái má phấn, môi son, khéo nói, khéo mời, khéo chìu khách”. Chắc cô đã đọc báo chí nói chung và

Phụ nữ tân văn kể về những vụ tự tử của các cô thiếu nữ trẻ ở các hồ Hà Nội 14 nên

liên tưởng đầu tiên vụt đến trong óc cô gái lớn lên ở Nam Kỳ khi đến Hà Nội là chuyện tự tử này. “Hôm tôi đến Hà Nội ngày đầu, thấy Hồ Gươm lần thứ nhứt, tôi vụt hỏi: “Có phải hồ nầy người gọi là mồ hồng nhan?”. Người ta gật đầu, tôi lại ngạc nhiên: “Làm sao mà tự tử được giữa chốn đông đảo vui đẹp thế này. Cái chết này chẳng có tính cách cái chết!”. Vì trước kia, nghe nói đến sự tự tử ở Hồ Gươm, tôi tưởng tượng ra một cảnh sầm uất, vắng vẻ, xa thành phố, chỗ có chim ụt đếm giờ,



14 Trên Phụ nữ tân văn năm 1929, Phan Khôi viết “Gần nay, trong nữ giới ta có xảy ra nhiều vụ tự sát. Thì cách hơn tháng trước, ở Hà Nội, trong một tuần lễ, mà hết bốn năm mạng vừa đàn bà, vừa con gái; ba mạng thì trầm mình nơi hồ Hoàn Kiếm, còn thì quyên sanh vì ả phù dung. Mới trong tuần đầu tháng chín tây đây, ở Nam Định có cô Trần Thị Quế cũng tự tử bằng cách sau đó, nhưng cứu được; còn ở Sài Gòn cũng có người đàn bà gieo mình xuống sông Thị Nghè, mà đã hơn tuần lễ mới vớt được thây. Ấy là những vụ chúng tôi biết được, hoặc còn nhiều nữa mà chúng tôi không được tin thì chưa kể. Nhưng mới trong vài tháng mà số tự sát đến ngần ấy, cũng đã là nhiều rồi” (76).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

dế gọi tỉ tê. Thế mà, sự thật hồ Hoàn Kiếm là nơi nhiều người đắm đuối. Vợ chồng cãi cọ với nhau một chút, vợ toan nhảy xuống hồ, học sinh chán bài, chán thi cũng toan nhảy xuống hồ, con bị cha mẹ rầy la cũng định trầm mình nơi ấy. Sự chết dễ dàng, gần bên mình lại làm cho người ta không xét đến cái giá trị của sự sống” [79, 13]. Vấn đề khiến Nguyễn Thị Kiêm quan tâm cũng là sự quan tâm chung của những ai chú ý đến biến động trong quan niệm sống của các thiếu nữ đương thời, nói rộng hơn là những biến đổi văn hóa trong chiều sâu của tâm lý phụ nữ. Điều này đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Nam phân tích thấu đáo và có những kết luận xác đáng (xem chú thích 113). Nhà nữ quyền trẻ tuổi không thể không lập tức liên tưởng đến thân phận người phụ nữ trong giây phút đầu tiên bên hồ Hoàn Kiếm: cô nghĩ đến mấy chữ mồ hồng nhan từ Truyện Kiều. Đây là nơi chôn vùi cuộc sống của những thiếu nữ (chứ không phải của nam giới!). Nếu như Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ đem chuyện các cô gái tự trầm để hài hước, giễu cợt thì Nguyễn Thị Kiêm nghĩ đây là điều hệ trọng.

Nguyễn Thị Kiêm còn quan tâm đến phụ nữ miền Bắc ở nhiều phương diện khác. Vẻ đẹp nền nã, có cái gì đó rất truyền thống toát lên từ cách phục sức và nhất là hàm răng đen gây cho cô ấn tượng mạnh. “Nói đến chị em Hà thành, tôi nhớ đến một câu của một người bạn trai Nam Kỳ: “ Các cô gái ấy mỹ miều, có hơi kín đáo, có hơi bí mật, mà cái miệng là cái hang sâu thẳm lọt mất biết bao lời lẽ thâm trầm”. Bạn tôi phê bình thế là ngụ ý tiếc hàm răng nhuộm của chị em làm nụ cười đen tối. Nhưng hiện nay, người đàn bà Bắc để răng trắng cũng nhiều. Người có răng đen nếu nhuộm thật tốt, bóng láng như hạt huyền thì cũng đẹp riêng một vẻ” [79, 14]. Riêng ở điểm này, những yếu tố văn hóa riêng trong tục nhuộm răng đen không được anh bạn của Nguyễn Thị Kiêm và chính Nguyễn Thị Kiêm hiểu đúng. Điều mà họ muốn là thay đổi kể vẻ đẹp thẩm mỹ cho người phụ nữ Việt Nam theo hướng hiện đại.

Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa văn học - 15

Một khía cạnh xã hội khác của người phụ nữ mà Nguyễn Thị Kiêm quan sát thấy: sự bất công giữa tầng lớp giàu nghèo. “Đi ngoài đường, nhất là buổi chiều và tối, người ta gặp rất nhiều bà nhiều cô ăn mặc sang trọng đẹp đẽ, rất nhiều ông

“mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Một cảm tưởng đầu thoạt nhiên nảy trong trí tôi ngay lúc bước vào thành phố Hà Nội là ở đây, cái nghèo, cái sang, thấy rò rệt quá. Rò rệt vì gần các ô tô lồng kiếng láng bóng, gần các bộ áo xinh xắn huê dạng lại có mấy chục mấy trăm đốm vải nâu của dân nghèo, cái màu nâu đã phai lợt với nắng, nước”. Trên kia chúng tôi đã dẫn ghi chép của Tùng Vân về các cô gái Sơn Tây mặc cả áo vá đi hội. Chẳng phải để tỏ tài khéo vá may như bà cụ giải thích cho Tùng Vân, đó chỉ là hiện thân của nỗi khốn khó mà các cô gái Sơn Tây phải chấp nhận. Thì đây, một du khách từ Nam Kỳ ra lại nêu vấn đề tương tự, không chỉ là biểu hiện của bất công giàu nghèo mà còn là biểu hiện sự nghèo khó của kinh tế vùng Bắc Kỳ: “Ai có đến Sài Gòn, Huế rồi, mà tới Hà Nội lần đầu thì có lẽ cũng nhận thấy cái rò rệt đặc biệt ấy ở nơi đây” [79, 14].

Nguyễn Thị Kiêm cũng không quên ghi nhận sự siêng năng chịu khó của phụ nữ Bắc Kỳ. “Trong các tánh tốt của người đàn bà Bắc Kỳ, tánh siêng năng bặt thiệp có lẽ là tánh chung. Phụ nữ Bắc Kỳ buôn bán giỏi, làm việc nhiều, bằng hay là trội hơn đàn ông. Đây là kể hạng trung và hạ lưu. Đi ngoài đường, mình thấy mấy cỗ xe chở cây, thùng, hàng nặng mà người kéo xe toàn là đàn bà, hoặc đàn bà lẫn đàn ông. Ở thành phố Hà Nội chẳng có xe ngựa, xe bò, bao nhiêu công việc nặng nề do tay người cả”. Trong lời khen có ngầm một ý ái ngại, cám cảnh. Đây là cái nhìn thực sự tập trung vào thân phận phụ nữ, khác với cái nhìn của Tam Lang (Một ngày ở xứ Chàm) đã nói ở trên tuy nói đến phụ nữ Chàm vất vả gian khó nhưng chủ yếu nhằm phê phán đàn ông Chàm lười biếng, ỷ lại vợ.

Tinh thần phụ nữ mới của Nguyễn Thị Kiêm còn bộc lộ ngay trong cái nhìn ngầm phê phán phong khí có vẻ suy đồi của thanh niên Hà Nội: “Cách Hà Nội chừng hai cây số ngàn, có xóm Khâm Thiên, đây là xóm ả đào, xóm đăng- xinh (dancing), chiều tối nào cũng tấp nập khách chơi, xe cộ…Thanh niên Hà Thành rất có nhiều sự quyến rũ (tentations) chung quanh mình. Ở đất ngàn năm văn vật này, phong cảnh hữu tình có thể đúc ra những óc lãng mạn mà cuộc chơi của thành phố ánh sáng đang chực chờ để lôi cuốn, thâu nhập, rồi nhả ra những tâm hồn bạc nhược chẳng có khí phách, chẳng có cái tinh thần mạnh mẽ đáng gọi là tinh thần thanh niên” [79, 15].

Chuyến đi của cô gái Nam Kỳ ra Bắc Kỳ rất có ý nghĩa đối với văn học hiện đại. Ít nhất, ta có được một cái nhìn so sánh Nam-Bắc của một người phụ nữ trẻ tuổi, tân tiến, có tư tưởng hiện đại về quyền phụ nữ và về cuộc sống nói chung. Thiên du ký của bà nêu nhiều vấn đề hệ trọng về người phụ nữ chưa từng gặp trong văn học trung đại.

Dọc đường đi ra Bắc, Nguyễn Thị Kiêm cũng thể hiện góc nhìn của phụ nữ chú ý đến cảnh đời phụ nữ hay. Vùng Phan Rang Phan Rí đất cát khô bỏng: “Ngồi trong xe đi qua mấy cánh đồng khô nóng ấy, mình tưởng tượng là lạc trong bãi sa mạc nào. Thế rồi trong cái cảnh phẳng lặng đìu hiu ấy, ta lại gặp một vài người đàn bà Chàm, mặc cũng dài, bó cái mình ốm, cao thẳng, đầu đội thúng to, đi điềm nhiên trong khoảng vắng. Mấy người này mặt nám, tóc quăn có cái vẻ lãnh đạm như tượng đồng…Thỉnh thoảng ta lại gặp người đàn bà mình, cũng da đen mặt nám nhưng nét mặt dịu dàng hơn, nhưng lang thang rách rưới hơn, hai vai hoằng hoại một gánh nặng, cúi đầu đi, đi như người có tội, trên mặt có vẻ vất vả đau thương, đi như Đức chúa Giê Du mang cây thánh giá nặng. Họ là mấy đốm đen trơ trọi trong cánh đồng trắng không bóng cây, không dạng nhà” [80, s. 258, tr. 10].

Một số đoạn trích đủ để hình dung nét riêng biệt của văn du ký tác giả nữ, họ quan tâm nhiều đến thân phận phụ nữ hơn các tác giả nam giới. Những vấn đề phụ nữ nêu lên trong văn du ký, do các tác giả đi nhiều, thay đổi không gian văn hóa trên phạm vi địa lý rộng, là những gì thực sự tác giả tai nghe mắt thấy, nên có một giá trị riêng, khác với các vấn đề phụ nữ đặt ra trong các tác phẩm hư cấu, kể cả văn học lãng mạn hay văn học hiện thực phê phán.

Tiểu kết

Hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một quá trình bao gồm nhiều phương diện, nhiều xu hướng. Văn du ký là thể loại văn xuôi trung gian đứng giữa các thể loại hư cấu như truyện ngắn, tiểu thuyết và thể loại phi hư cấu nên có những đóng góp riêng so với mảng sáng tác hư cấu trong công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc nửa đầu thế kỷ XX. Ba mảng nội dung chủ đạo, nổi bật được xem như là đóng góp của văn du ký cho diện mạo của nền văn học hiện đại là nhận thức về “người khác” từ nhu cầu tự thay đổi để phát triển; tính chất lãng mạn của cảm hứng du lịch và ý thức nữ quyền thể hiện trong văn du ký của các tác giả nam giới và văn du ký của chính các tác giả nữ.

CHƯƠNG 4

NGHỆ THUẬT VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC


Trong khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn du ký và sự tiến hóa của tiểu thuyết Phương Tây hiện đại, Percy Adams cho biết, A. O. Aldridge từ những năm 1960 đã kêu gọi đánh giá lại các nhân tố đứng sau sự ra đời của tiểu thuyết và trong khi xem nhẹ yếu tố cấu trúc và đề tài, Aldridge cho rằng cần nghiên cứu các kiểu tự sự bao gồm sử thi, tiểu thuyết lịch sử, sử học, tiểu sử học và văn học du lịch (travel literature). Nói một cách ngắn gọn, ở Phương Tây, văn du ký có đóng góp quan trọng cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại Phương Tây.

Giới nghiên cứu Phương Tây nhận thấy trong văn du ký các thế kỷ XVI, XVII và XVIII sử dụng phổ biến bốn hình thức tự sự sau: viết thư, nhật ký, tự sự ngôi thứ nhất, tự sự ngôi thứ ba và các hình thức không điển hình như đối thoại. “Khi xem xét lịch sử của văn du ký, người ta thường chủ yếu tập trung vào thư từ, nhật ký, tự sự ngôi thứ nhất, và vô số những tự sự ghi chép lại ở ngôi thứ ba15, đó là những hình thức rất phổ biến từ những năm 1530” [276, 45]. Các hình thức tự sự đó

được giới nghiên cứu Phương Tây xem như là các nền tảng thi pháp cần thiết chuẩn bị cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại. Nói cách khác, văn du ký ở Phương Tây là hình thái tiền thân của tiểu thuyết hiện đại.

Carl Thompson trong Travel Writing đặc biệt chú ý đến bản chất của các hình thức tự sự là nhằm đạt đến mục đích tả chân bức tranh cuộc sống mà người du lịch quan sát. Chẳng hạn, đối với hình thức ghi nhật ký, ông viết: “Giữ hình thức nhật ký là một tôn chỉ then chốt của Hội Hoàng gia. Nó được dự tính để bảo đảm rằng các quan sát được ghi chép hãy còn tươi mới trong trí nhớ, thậm chí các cảnh tượng và sự kiện như còn đang trước mắt khách du chứ không phải là được nhớ lại ở một địa điểm khác, trong một thời gian lùi về sau” [261, 75].



15 Tự sự ngôi thứ ba: chẳng hạn tác giả không trực tiếp kể mà dẫn lại một truyền thuyết dân gian ở địa phương hoặc dẫn lời kể của người khác, dẫn các tài liệu nghiên cứu, điều tra của môn dư địa chí.

Nhưng văn du ký không chỉ là sự ghi chép khô khan các sự kiện, các con số về các địa điểm, các vùng đất như cuốn sách hướng dẫn du lịch mà còn là sự bộc lộ cái tôi của người du lịch, là sự tự khám phá bản thân cuả người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Carl Thompson viết: “Phổ biến hơn là các tự sự hướng đến sự hòa quyện giữa thế giới nội tâm và thế giới khách quan, pha trộn giữa sự miêu tả khách quan mang tính sự kiện hiển nhiên về con người và địa điểm mà tác giả đi qua với sự tường thuật có tính chủ quan rò rệt các tư tưởng và cảm xúc của chính người du hành về tiến trình du lịch” [261, 98]. Sự cân bằng giữa hai phương diện khách quan hóa và chủ quan hóa này là khác nhau qua các thời đại và các tác giả văn du ký, song hai phương diện đó luôn tồn tại. Điều này cũng làm nên một đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết hiện đại.

Tất nhiên, văn du ký của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có những đặc điểm riêng nên khi vận dụng mô hình lý luận khái quát từ thực tiễn văn du ký Phương Tây cần cân nhắc. Khác với văn học Phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam hiện đại hình thành không những từ nền tảng của văn học tự sự Phương Đông mà còn tiếp thu trực tiếp các kỹ thuật viết tiểu thuyết từ văn học Phương Tây. Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Quỳnh khi bàn về tiểu thuyết có dẫn cả cách kể chuyện trong Truyện Kiều đồng thời lại giới thiệu cả lịch sử tiểu thuyết Pháp. Các nhà văn Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX khi sáng tác tiểu thuyết đã có bên mình không chỉ các bộ tiểu thuyết Phương Tây mà còn cả những thiên tiểu thuyết chương hồi Phương Đông như Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, Thủy hử. Rất khó có căn cứ để nói rằng văn học du lịch (travel literature) ở văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là thể loại mở đầu, từ văn du ký mà dẫn đến sự ra đời của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ, có thể nói đến những đóng góp của văn du ký đối với việc hình thành tư duy và thi pháp tự sự hiện đại, vai trò tập dượt viết văn xuôi tiểu thuyết mà văn du ký đã thực hành. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi công kích Phạm Quỳnh, hai nhà nho Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng đều có nói đến

du ký của ông này16. Có thể phỏng đoán hai cụ khinh ghét Pháp du hành trình nhật


16 Ngô Đức Kế trong Luận về chánh học cùng tà thuyết viết “Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng đáng là bao, mới lom lem những học thuyết ông Mạnh (Montesquieu), ông Lư

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/07/2022