Tư Tưởng Của Đảng Cộng Sản Trung Quốc Về Phát Triển Con Người Toàn Diện


phương thức thoả mãn nhu cầu, làm cho họ liên hệ với nhau (quan hệ nam nữ, trao đổi, phân công lao động), cho nên họ phải đặt quan hệ với nhau. Nhưng vì họ đặt quan hệ với nhau không phải với tính cách là những cái Tôi thuần túy, mà với tính cách là những cá nhân ở trong một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất của họ và của nhu cầu của họ và vì sự giao tiếp ấy lại quyết định sản xuất và nhu cầu, cho nên chính mối quan hệ cá nhân riêng tư của các cá nhân với nhau, mối quan hệ lẫn nhau giữa họ với tính cách là những cá nhân đã tạo nên - và hằng ngày lại tạo nên - những quan hệ hiện hành [17, tr.642].

Những cá nhân phát triển toàn diện - mà quan hệ xã hội của họ, tuy là những quan hệ tập thể của chính họ, nhưng cũng phục tùng sự kiểm soát tập thể của chính họ - là sản phẩm của lịch sử, chứ không phải là của giới tự nhiên. Cái trình độ và sự phát triển toàn diện của các tiềm năng mà nhờ đó cá tính ấy có thể tồn tại được - có tiền đề của mình chính là hoạt động sản xuất trên cơ sở các giá trị trao đổi, mà những giá trị trao đổi này, cùng với sự tha hóa phổ biến của cá nhân đối với bản thân mình và đối với các cá nhân khác, lần đầu tiên cũng tạo ra tính phổ biến và tính toàn diện của những quan hệ và những năng lực mà cá nhân ấy có được [20, tr.174].

Mác cho rằng, con người là tổng hòa của tất cả quan hệ xã hội, thực tế quan hệ xã hội quyết định mức độ phát triển của con người, sự hình thành năng lực con người, biểu hiện của sự phát triển đều không tách rời quan hệ xã hội. Mác nói rằng:

Kết quả là một sự phát triển phổ biến - xét về xu hướng của nó và xét về các khả năng của nó - của lực lượng sản xuất và nói chung của của cải với tính cách là cơ sở, cũng như tính toàn diện của giao tiếp và do vậy là thị trường thế giới với tính cách là cơ sở. Cơ sở với tính cách là khả năng phát triển toàn diện của cá nhân và sự phát triển thực tế của các cá nhân trên cơ sở ấy, với tính cách là một sự không ngừng loại trừ giới hạn đối với sự phát triển ấy, cái giới hạn được nhận thức như là một giới hạn, chứ không phải là như là một ranh giới thiêng liêng nào đó. Tính toàn diện của cá nhân không phải với tính cách là tính toàn diện được hình dung hoặc được tưởng tượng,


mà là với tính cách là tính toàn diện của những quan hệ của nó trong hiện thực và trong ý niệm [20, tr.63].

Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác, quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh càng phong phú, thế giới nội tâm của anh ta sẽ càng phong phú, cuộc sống của anh ta sẽ biểu hiện đa dạng hơn. Luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác, các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng, sự phong phú toàn diện của quan hệ xã hội không chỉ mang ý nghĩa người này với người khác được xuất hiện với thân phận một thành viên nào đó trong quần thể xã hội, mà còn tồn tại trong vai trò quan hệ tương tác phát sinh giữa người này với người khác; mang ý nghĩa con người từ bỏ cái tính giới hạn hẹp hòi của cá thể từ trước đến nay, của phân công, khu vực và dân tộc; đồng thời còn mang ý nghĩa sự hình thành toàn diện của các mối quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ pháp luật, quan hệ luân lý, quan hệ tôn giáo, quan hệ văn hóa, phát triển từ nghèo nàn trở nên phong phú, từ khép kín trở nên cởi mở, từ phiến diện trở nên toàn diện và có được sự phát triển hài hòa nhịp nhàng. Cùng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, con người hoặc chủ động hoặc bị động tham gia các lĩnh vực xã hội, vào trong các tầng thứ phân công và giao tiếp, cùng vô số cá nhân khác, từ đó cũng sẽ cùng với hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần của toàn thế giới thực hiện trao đổi một cách phổ biến, làm cho đối tượng, nội dung, phương thức… của giao tiếp từ giản đơn, nghèo nàn, hẹp hòi, đơn nhất từng bước trở nên phức tạp, phong phú, rộng khắp và đa dạng hơn.

Những lĩnh vực riêng biệt tác động lẫn nhau càng mở rộng ra trong quá trình phát triển đó, sự biệt lập ban đầu giữa các dân tộc riêng biệt càng bị phá huỷ bởi phương thức sản xuất đã được cải tiến, bởi sự giao tiếp và bởi sự phân công lao động do đó mà hình thành ra một cách tự nhiên giữa các dân tộc khác nhau thì lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới” [17, tr.65-66].

Cùng với xóa bỏ giai cấp, chế độ công hữu về sở hữu tư liệu sản xuất được xác lập và hoàn thiện, hình thức phân công kiểu cũ biến mất, điều kiện vật chất và tinh thần được cải thiện và tố chất tổng hợp của toàn xã hội được nâng cao toàn diện, cá nhân sẽ rũ bỏ được sự phụ thuộc vào vật, vào người khác và cộng đồng,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.


trở thành con người thực sự tự do, giao tiếp giữa người với người sẽ càng tự do hơn, cởi mở hơn, thực sự bước vào một kiểu trạng thái giao tiếp của cộng đồng thế giới.

Vấn đề phát triển con người toàn diện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam - 8

2.2. TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

2.2.1. Quá trình xây dựng, bổ sung, hoàn thiện tư tưởng phát triển con người toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kế thừa và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác, đồng thời kết hợp với tình hình thực tiễn cụ thể của nước mình để tiến hành Trung Quốc hóa lý luận chủ nghĩa Mác. Tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc về phát triển con người toàn diện thể hiện lập trường chính trị của chủ nghĩa Mác - đó là các chính đảng của giai cấp vô sản phải bắt nguồn từ nhân dân, quán triệt quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác, đồng thời là sự bổ sung của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với tư tưởng phát triển con người toàn diện của chủ nghĩa Mác trong thời kỳ cải cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở mỗi thời kỳ vừa mang tính kế thừa, vừa có những đặc sắc riêng, được thể hiện thông qua quan điểm của các thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc.

2.2.1.1. Mao Trạch Đông với tư tưởng “giải phóng cá tính” tạo tiền đề về chính trị cho phát triển con người toàn diện

Xuất phát từ tư tưởng “giải phóng cá tính” (giải phóng cá nhân con người) sớm được tiếp thu khi còn trẻ qua sách báo được du nhập từ nước ngoài, nhất là

được dấn thân theo tinh thần “tiến hoá luận và giải phóng cá tính”(进化论观点和

个 性 解 放 ) là vũ khí tư tưởng của Phong trào văn hoá mới đầu thế kỷ XX ở Trung Quốc được đẩy đến nổ ra Phong trào Ngũ Tứ 1919, và đặc biệt được thẩm thấu tinh thần này qua quan điểm của chủ nghĩa Mác trong điều kiện cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã chủ trương lật đổ các thế lực áp bức, bóc lột nhân dân Trung Quốc, giải phóng người dân Trung Quốc, thành lập nên đất nước Trung


Quốc xã hội chủ nghĩa làm cho người dân có cuộc đời mới tự do và phát triển. Mao Trạch Đông cho rằng đây là tiền đề chính trị bắt buộc cho sự phát triển toàn diện của con người.

Kế thừa và vận dụng tư tưởng của chủ nghĩa về con người và phát triển con người toàn diện của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông xem giải phóng cá tính và phát triển cá tính là nội dung của cách mạng dân chủ chống lại chế độ phong kiến, đồng thời coi đây là điều kiện cần có của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mao Trạch Đông cho rằng: “Giải phóng cá tính, đây cũng là yêu cầu tất yếu của cách mạng dân chủ chống phong kiến... Cá tính bị trói buộc nếu không được giải phóng thì sẽ không có chủ nghĩa dân chủ, cũng không có chủ nghĩa xã hội” [109, tr.239]. Năm 1945 trong “Bàn về chính phủ liên hợp”, Mao Trạch Đông nói: “Áp bức dân tộc và áp bức phong kiến đang trói buộc một cách tàn khốc sự phát triển cá tính của nhân dân Trung Quốc”, “Nhiệm vụ của chế độ dân chủ mới… chính là xóa bỏ những trói buộc này và ngăn chặn sự phá hoại này, bảo đảm cho đông đảo nhân dân có thể tự do phát triển cá tính trong cuộc sống”. “Nếu Trung Quốc không có độc lập thì không có cá tính, giải phóng dân tộc chính là giải phóng cá tính, về chính trị phải làm như vậy, về kinh tế phải làm như vậy, về văn hóa cũng phải làm như vậy” [109, tr.416]. Sau khi đất nước Trung Quốc thành lập năm 1949, lần đầu tiên địa vị làm chủ của nhân dân trong đời sống của đất nước Trung Quốc đã được xác lập trong Hiến pháp, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã được thể hiện rò nét. Nguyên tắc nhân dân làm chủ là đặt ý chí và lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, coi quyền lợi của công dân là nguồn gốc quyền lực của Nhà nước và có quyền uy tối thượng, từ đó làm cho việc thực hiện tính chủ thể của con người không còn là không tưởng, sự phát triển toàn diện của con người được bảo đảm về mặt chính trị.

Khi người dân Trung Quốc đã có những đảm bảo về mặt chính trị, nhằm tạo điều kiện để nâng cao tố chất của người dân, Mao Trạch Đông chủ trương coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục chính trị tư tưởng. Ông chủ trương công dân Trung Quốc phải có giác ngộ về chủ nghĩa cộng sản, kiên định phương hướng


chính trị đúng đắn và học tập lý luận chủ nghĩa Mác, vừa cải tạo thế giới khách quan, vừa cải tạo thế giới chủ quan. Mao Trạch Đông chủ trương “tiến hành giáo dục đối với đảng viên, làm cho họ tự giác, hiểu được rằng trong xã hội còn rất nhiều người không có nhân cách, không có tự do, cần phấn đấu cho tự do của họ…. dưới sự giáo dục của Đảng, đã phát triển được nhân cách, tính độc lập và tự do của họ” [109]. Quan điểm trên của Mao Trạch Đông chính là sự kế thừa tư tưởng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người” của Mác. Theo ông, không thể có một xã hội phát triển nếu mỗi con người không phát triển, không có cá tính, và con người khi có nhân cách độc lập mới có thể “từ khách thể lịch sử bị động trở thành chủ thể lịch sử tích cực có ý thức giai cấp” [109, tr.416].

Về phương châm giáo dục và chính sách giáo dục, Mao Trạch Đông cho rằng, cần dựa trên nguyên lý căn bản của giáo dục chủ nghĩa Mác, đặc điểm phát triển lịch sử xã hội của Trung Quốc và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tìm ra con đường căn bản là kết hợp giữa giáo dục với lao động sản xuất, kết hợp giữa lao động trí lực với lao động thể lực, bồi dưỡng nên những con người vừa hồng vừa chuyên, thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện.

2.2.1.2. Đặng Tiểu Bình kiên trì giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, kết hợp đặc điểm thời đại và điều kiện cụ thể của Trung Quốc để nêu bật “tính hiện thực” của phát triển con người toàn diện

Đặc sắc trong lý luận Đặng Tiểu Bình về phát triển con người toàn diện thể hiện ở các nội dung chủ yếu như sau:

Về ý nghĩa của phát triển con người toàn diện, Đặng Tiểu Bình cho rằng, phát triển con người toàn diện là yêu cầu bản chất của chủ nghĩa xã hội. Theo tư tưởng chủ nghĩa Mác, phát triển con người toàn diện là một đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời, sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi người là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lý luận Đặng Tiểu Bình kế thừa nguyên tắc chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác. Ông tập trung vào con người hiện thực, xuất phát từ thực tiễn để đưa ra một


loạt đường lối, phương châm, chính sách phù hợp với tình hình thực tế của Trung Quốc và có lợi cho sự phát triển toàn diện của người dân. Đặng Tiểu Bình xuất phát từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và cải cách mở cửa, đã trả lời một cách khoa học các câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào”, đồng thời ông chỉ rò: “Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa hai cực, cuối cùng đạt mục tiêu cùng giàu có” [78].

Trên cơ sở nắm bắt cụ thể các điều kiện của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, kết hợp nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, Đặng Tiểu Bình đã chỉ ra chìa khóa của quá trình hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là con người, và nhấn mạnh, con người là nhân tố tích cực nhất tạo ra năng suất lao động. Con người được nói đến ở đây là con người có kiến thức khoa học, kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng lao động nhất định để sử dụng công cụ sản xuất, sản xuất ra tư liệu vật chất. Con người là nhân tố cách mạng nhất, năng động nhất, tích cực nhất trong lực lượng sản xuất. Con người có tri thức khoa học, kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng lao động là cơ sở của sự phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội không thể tách rời sự phát triển của con người, việc nâng cao tố chất và năng lực của con người là cơ sở của sự phát triển xã hội.

Đặng Tiểu Bình luôn ý thức sâu sắc định vị của Trung Quốc, đó là Trung Quốc ở trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội và của quá trình phát triển con người toàn diện. Ông nhấn mạnh rằng việc nâng cao và phát triển lực lượng sản suất xã hội cần dựa trên cơ sở nâng cao năng lực của cá nhân con người và sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Ông gắn sự phát triển của con người với thực tiễn của giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, coi sự phát triển toàn diện của mọi người dân Trung Quốc là mục tiêu của phát triển xã hội. Vì vậy, Đặng Tiểu Bình luôn đặt lợi ích và giá trị của con người lên vị trí cao nhất, luôn lấy việc trả lời các câu hỏi “nhân dân có chấp nhận hay không”, “nhân dân có tán thành hay không”, “nhân dân có ủng hộ hay không” và “nhân dân có hạnh phúc hay không” làm điểm xuất phát và điểm kết thúc cho mọi công tác của Đảng và


Nhà nước, và coi nâng cao đời sống của nhân dân là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá thành bại của mọi công tác.

Về điều kiện thực hiện phát triển con người toàn diện, Đặng Tiểu Bình cho rằng, phát triển con người toàn diện phải dựa trên cơ sở xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu trong xã hội. Mác cho rằng con người trước hết phải có khả năng tồn tại mới có thể sáng tạo ra lịch sử, và tiền đề đầu tiên của sự tồn tại của loài người là sản xuất xã hội. Theo Mác, “sự biến đổi lịch sử thành lịch sử toàn thế giới không phải là hành vi trừu tượng nào đó của ‘tự ý thức’, của tinh thần thế giới hay của một con ma siêu hình nào đó, mà là một hành động hoàn toàn vật chất, có thể kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm, một hành động mà mỗi cá nhân - đúng như cá nhân đó đang tồn tại trong đời sống thực tế, đang ăn, uống và mặc quần áo” [17, tr.66]. Mác cho rằng sự tồn tại và phát triển của con người được thực hiện dưới hình thức sống, tiền đề của sự sống là con người tạo ra những tư liệu vật chất cần thiết thông qua hoạt động sản xuất vật chất. Vì vậy, hoạt động lịch sử đầu tiên của loài người là hoạt động sản xuất xã hội.

Đặng Tiểu Bình xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, từ thực tế Trung Quốc và từ con người hiện thực để chỉ ra rằng mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa là đáp ứng nhu cầu cơ bản về vật chất và văn hóa ngày càng tăng lên của con người. Ông từng nói: “Mức sống và trình độ văn hóa của nhân dân ta chưa cao, điều này… chủ yếu chỉ có thể giải quyết bằng cách tích cực xây dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần” [78, tr.41]. Đặng Tiểu Bình nhìn nhận sự phát triển toàn diện của con người từ góc độ vĩ mô của sự phát triển xã hội, ông cho rằng để giải quyết vấn đề tồn tại và phát triển của con người thì phải chú trọng cải thiện điều kiện sống - điều kiện vật chất - của con người, chú trọng nâng cao đời sống nhân dân, xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu, đồng thời coi việc cải thiện điều kiện sống của con người là tiền đề và điều kiện quan trọng để thực hiện phát triển con người toàn diện. Đặng Tiểu Bình cho rằng, “đói nghèo không phải là chủ nghĩa xã hội” và “nhiệm vụ hàng đầu của chủ nghĩa xã hội là phát triển lực lượng sản xuất, từng bước nâng cao đời sống vật chất và văn hóa


của nhân dân” [78, tr.116]. Ông xác định nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân là mục tiêu của sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa, coi sự thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người là cơ sở cho sự phát triển toàn diện của con người.

Về mục tiêu của phát triển con người toàn diện, Đặng Tiểu Bình xác định cần xây dựng con người mới có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật. Sự phát triển toàn diện của con người vừa là một quá trình lịch sử tự nhiên, vừa là một quá trình phát triển tự giác, do đó, con người vừa có tính tự nhiên, vừa có tính xã hội; phát triển con người toàn diện không những phải đáp ứng nhu cầu phát triển của bản thân con người mà còn phải giúp thúc đẩy nhu cầu phát triển của xã hội. Kế thừa tư tưởng về con người và phát triển con người của chủ nghĩa Mác đồng thời tiếp nối quan điểm của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình cho rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể tách rời việc xây dựng nên những con người kế tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu này không thể tách rời giáo dục và đào tạo con người. Đặng Tiểu Bình đã đề ra mục tiêu “xây dựng lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vô sản có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật” [76]. Ông chỉ rò: “Ở đất nước xã hội chủ nghĩa, một chính đảng chủ nghĩa Mác sau khi cầm quyền nhất định phải ra sức phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời trên cơ sở đó từng bước nâng cao đời sống của nhân dân…, đồng thời còn phải xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa, điều căn bản nhất là làm cho đông đảo nhân dân có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật”. Như vậy, theo Đặng Tiểu Bình, trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, không những phải xây dựng trình độ văn minh vật chất cao, cung cấp điều kiện vật chất cho sự phát triển toàn diện của con người mà còn phải xây dựng trình độ văn minh tinh thần cao, nâng cao trình độ khoa học của con người và nâng cao tố chất văn hóa, tố chất tư tưởng, đạo đức thông qua xây dựng nền văn minh tinh thần.

2.2.1.3. Giang Trạch Dân xuất phát từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, đã chỉ ra “tính quy luật” của phát triển con người toàn diện

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí