Khái Niệm Và Đặc Điểm Của An Sinh Xã Hội Đối Với Nông Dân


tế, nó trải qua bốn giai đoạn là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Trong giai đoạn khủng hoảng và tiêu điều, thì giá cả giảm sút, lợi nhuận giảm, các nhà kinh doanh thu hẹp sản xuất, làm cho sản xuất đình đốn, người lao động bị thất nghiệp, không có việc làm, không có thu nhập, đời sống của bản thân và gia đình họ gặp khó khăn. Lúc này, hệ thống ASXH như là một biện pháp hữu hiệu để trợ giúp cho người lao động có thu nhập đảm bảo cuộc sống bình thường, đối phó với những rủi ro về kinh tế, đổi mới kỹ năng để tìm kiếm việc làm.

Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, với khoảng 56,8% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với thu nhập thấp và không ổn định; tỷ lệ người nghèo và tái nghèo vẫn còn cao trong khu vực nông thôn, ước tính hàng năm số hộ tái nghèo chiếm 7-10% so với số hộ thoát nghèo [1], nông dân nước ta đang đối mặt với những vấn đề khó khăn trong kinh tế, đặc biệt là mỗi khi gặp rủi ro về đau ốm, thiên tai, bão lụt... Khó khăn về kinh tế tiềm ẩn những rủi ro về văn hoá và chính trị, nếu những vấn đề này không được giải quyết hợp lý thì Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Một hệ thống đồng bộ các chính sách kinh tế - xã hội, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH đối với nông dân để ổn định và phát triển nông thôn là vấn đề có ý nghĩa to lớn.

Thứ ba, tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đòi hỏi đảm bảo ASXH cho người dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa một mặt chuyển đổi phương pháp sản xuất, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế ngày càng hiện đại, từ đó tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Song CNH, HĐH cũng tạo ra các mặt trái đối với con người. Quá trình CNH, HĐH diễn ra càng mạnh thì nguy cơ ô nhiễm môi trường, ô nhiễm điều kiện sinh sống của người dân càng tăng lên. CNH, HĐH càng tăng, khu vực công nghiệp ngày càng mở rộng thì nhu cầu chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất công nghiệp và xây dựng càng lớn. Điều đó dẫn đến tình trạng người dân mất đất sản xuất và đất ở ngày càng tăng. Tình trạng di dân tìm việc làm, tình trạng mất sinh kế của người dân trong điều kiện CNH, HĐH diễn ra ngày càng mạnh theo quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải có chính sách đảm bảo an sinh cho người dân.


2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của an sinh xã hội đối với nông dân

2.1.2.1. Khái niệm về an sinh xã hội đối với nông dân

Ở Việt Nam hiện nay, các nhà khoa học cũng như những người hoạch định chính sách cũng chưa có được một định nghĩa thống nhất về ASXH nói chung và ASXH đối với nông dân nói riêng. Có người ủng hộ quan điểm ASXH mà ILO công bố, có người lại đưa thêm quan điểm thực hiện ASXH nhất thiết phải thực hiện hình thức ƯĐXH; cũng có người lại cho rằng ASXH ở Việt Nam phải đặc biệt chú trọng đến công tác cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế... và có quan điểm cho rằng XĐGN cũng là phạm vi của chương trình ASXH. Những quan điểm này có thể nhận được sự đồng tình của các chuyên gia quốc tế, nhưng đôi khi quan điểm của các chuyên gia quốc tế cũng trái ngược với quan điểm của các chuyên gia trong nước. Theo họ hệ thống ASXH thực chất có vai trò rất quan trọng trong việc giảm nghèo và cũng có thể trở thành một phần của chiến lược lớn về giảm nghèo kết hợp với các cơ chế tạo việc làm, đầu tư công cho phát triển công trình kết cấu hạ tầng, các chính sách giáo dục quốc gia. Nhưng vai trò cốt lõi của việc thực hiện ASXH không nhất thiết phải là giúp cho các cá nhân và hộ gia đình thoát khỏi ngưỡng nghèo mà vai trò của nó là bảo vệ họ trước sự phát triển tự nhiên của con người, vượt qua những rủi ro về kinh tế, sự biến đổi theo chu kỳ của kinh tế thị trường và tác động của CNH, HĐH. Đồng thời, thoát nghèo cũng có thể là một kết quả do được tiếp cận tốt hơn với phúc lợi bảo trợ xã hội, nhưng nó không phải là vai trò chính của chính sách bảo trợ xã hội. Trên thực tế, nhiều chế độ trong các chương trình ASXH của các nước đang phát triển không nhất thiết phải hướng đến đối tượng là người rất nghèo.

Đối với tác giả Luận án, mặc dù có ý kiến khác với các quan điểm khác nhau của những chuyên gia trong nước, nhưng tác giả lại ủng hộ tư tưởng của những chuyên gia này. Tác giả đưa ra quan điểm về hệ thống ASXH cho nông dân như sau:

An sinh xã hội đối với nông dân là một hệ thống các chính sách, các biện pháp mà nhà nước, gia đình và xã hội thực hiện nhằm trợ giúp người nông dân đối phó với những rủi ro gây ra bởi các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho người nông dân bị suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập, bị rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hoá.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.


2.1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của an sinh xã hội đối với nông dân

Vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam - 6

ASXH đối với nông dân Việt Nam có những đặc điểm cơ bản, trong đó có những điểm chung với ASXH nói chung và những đặc trưng riêng của nó:

Thứ nhất, ASXH đối với nông dân là sự gắn bó chặt chẽ cả hình thức đóng - hưởng và hình thức không dựa trên nguyên tắc đóng góp.

Cũng như mô hình tổ chức ASXH nói chung cho mọi đối tượng người dân, mô hình tổ chức ASXH đối với nông dân cũng được cấu thành từ hai hợp phần cơ bản là ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng và ASXH không dựa vào sự đóng góp của người dân mà dựa vào sự trợ giúp của Nhà nước và của cộng đồng. Tùy điều kiện cụ thể mà Nhà nước ở mỗi nước xây dựng các hợp phần này có nội dung, đối tượng và phạm vi tham gia cũng khác nhau. Chẳng hạn ở Việt Nam hai bộ phận hợp thành của mô hình tổ chức ASXH đối với nông dân có những đặc điểm như sau:

- Theo nguyên tắc đóng - hưởng, ASXH đối với nông dân bao gồm BHYTTN và BHXHTN.

+ Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH [59]. Nếu như ở nhiều nước phát triển, BHXHTN là hình thức bảo hiểm bổ sung mà người lao động tự nguyện tham gia để có được mức hưởng an sinh cao hơn, thì ở Việt Nam và nhiều nước đang phát triển khác BHXHTN là hình thức BHXH cho người lao động làm việc ở khu vực phi chính thức, trong đó có nông dân. Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội người tham gia vào loại hình BHXHTN phải hoàn toàn chịu về phí đóng góp tham gia mà không có sự hỗ trợ tài chính từ bất kỳ cá nhân và tổ chức nào khác. Thêm vào đó, quyền lợi của người tham gia hệ thống BHXHTN lại thấp hơn so với quyền lợi của những đối tượng của bảo hiểm xã hội bắt buộc (BHXHBB) thuộc khu vực chính thức. Hiện nay ở nước ta quy định người tham gia BHXHTN sẽ được hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất.

+ Bảo hiểm y tế tự nguyện là một trong những cơ chế đảm bảo xã hội ra đời sớm nhất ở các nước có nền kinh tế công nghiệp hóa. Cũng như BHXHTN, nếu như ở các nước phát triển BHYTTN là bảo hiểm bổ sung để được hưởng mức an sinh cao hơn, thì ở nước ta, ngay từ năm 1992, Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị


định số 299-HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng [46] và được bổ sung bằng Nghị định số 47-CP ngày 6/6/1994, các cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ hưu trí, mất sức lao động ở các khu vực hành chính sự nghiệp, người lao động khu vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước và tư nhân có từ 10 lao động trở lên tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc (BHYTBB); các đối tượng khác tham gia BHYT theo khả năng và nhu cầu, trên cơ sở tự nguyện. Do vậy, nông dân tham gia BHYTTN. Hình thức này được cụ thể hóa trong Luật BHYT [60]. Ở nước ta, người nghèo nói chung, nông dân nghèo nói riêng được Nhà nước mua BHYT. Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thu nhập của khu vực phi chính thức còn thấp, gần đây, Nhà nước ta đã có chủ trương hỗ trợ kinh phí để đối tượng cận nghèo mua BHYT.

- Theo nguyên tắc không dựa vào đóng góp, ASXH đối với nông dân bao gồm các hình thức trợ giúp. Ở mỗi nước khác nhau có các hình thức trợ giúp cũng khác nhau, nhưng đều có điểm chung là nguồn tài chính cho TGXH đều được thực hiện từ NSNN. Ở nước ta các hình thức trợ giúp chủ yếu là TGXHTX và TGXHĐX từ Nhà nước và từ cộng đồng xã hội. Hình thức này được tổ chức theo thể chế chính sách chung của các chương trình trợ giúp.

Như vậy, ASXH đối với nông dân ở nước ta được thực hiện thông qua việc tự nguyện tham gia đóng góp của người nông dân, sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng. An sinh xã hội là biện pháp đảm bảo để phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế rủi ro. Đó là trách nhiệm của mỗi người dân, của xã hội và cộng đồng trong việc xây dựng hệ thống ASXH. Trước hết, mọi nông dân phải tự nguyện và chủ động tham gia vào hệ thống ASXH. Họ phải có tự nguyện tích lũy, đóng góp vào quỹ an sinh để được thụ hưởng khi cần thiết. Tuy nhiên, tích lũy của nông dân là một yêu cầu. Với tư cách là biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế những rủi ro do biến động kinh tế - xã hội xảy ra nên Nhà nước và cộng đồng phải có sự trợ giúp cần thiết. Thêm nữa, đối với Việt Nam hiện nay, nông dân có thu nhập thấp, nên khả năng chủ động tham gia ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng là không cao. Vì thế sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng lại càng có ý nghĩa quan trọng. Nhà nước không những đảm bảo tài chính cho các chương trình an sinh không đóng góp, mà còn cần có sự trợ giúp nhất định để nông dân tham gia ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng. Đồng thời sự giúp đỡ cộng đồng cũng rất cần thiết, nhất là trong các


trường hợp nông dân gặp thiên tai, lụt bão, mất mùa, hoặc những người do bệnh tật, đau yếu mất sức lao động, cô đơn không nơi nương tựa,… Điều này thể hiện tính nhân đạo xã hội.

Nói cách khác, tài chính cho ASXH đối với nông dân được đảm bảo từ sự đóng góp của người tham gia, hỗ trợ của Nhà nước và trợ giúp của cộng đồng. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, tỷ phần này có sự thay đổi. Thường là trong giai đoạn đầu, sự hỗ trợ của Nhà nước và trợ giúp cộng đồng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Thứ hai, ASXH đối với nông dân thuộc lĩnh vực ASXH cho khu vực phi chính thức (phi kết cấu). Hệ thống luật pháp cho việc thực thi ASXH đối với nông dân cần có những quy định có tính đặc thù cho khu vực này. Hiện nay, trong phân tổ thống kê còn có sự khác nhau về tên gọi các khu vực kinh tế. Nhìn chung, khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp được gọi chung tên là khu vực chính thức; những người tự làm, nông dân,… được gọi với các tên là khu vực phi kết cấu, hoặc khu vực phi chính thức. Khu vực phi kết cấu hay phi chính thức chủ yếu ở những hoạt động thủ công nghiệp truyền thống, quy mô nhỏ, hoạt động mang tính chất kinh tế gia đình như trồng trọt, chăn nuôi, làm gia công cho các hợp tác xã hoặc xí nghiệp quốc doanh, kinh doanh cá thể… Như vậy ASXH đối với nông dân thuộc lĩnh vực ASXH cho khu vực phi chính thức. Hoạt động của khu vực này rất đa dạng, phong phú, nhưng quy mô nhỏ, rất khó đo đếm và kiểm soát như khu vực chính thức. Vì thế, việc xây dựng hệ thống luật pháp về ASXH đối với khu vực này phải tính đến những đặc thù về quy mô, phạm vi, khả năng kiểm soát để thực hiện chính sách ASXH.

Thứ ba, người nông dân là những người có thu nhập thấp và không ổn định, vì vậy tính bền vững và ổn định về tài chính cho việc thực hiện ASXH là không cao. Đặc điểm này cũng dẫn đến trong quản lý nhà nước phải tính đến những quy định về mức đóng, mức hưởng như thế nào để phù hợp với khả năng thu nhập của nông dân. Có như thế mới đảm bảo tính khả thi của chính sách ASXH.

2.1.3. Vai trò của an sinh xã hội đối với nông dân

Hệ thống ASXH với nông dân là một trong những cấu phần quan trọng trong chương trình ASXH của một quốc gia và là công cụ quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống luật pháp, chính sách và các chương trình ASXH. ASXH nói chung


giúp giữ gìn sự ổn định về xã hội - kinh tế - chính trị của đất nước, đặc biệt là hệ thống ASXH cho đối tượng nông dân càng góp phần tạo nên sự ổn định xã hội, giảm bất bình đẳng, hạn chế phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội; tạo nên sự đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển, cụ thể như sau:

Thứ nhất, ổn định chính trị. Nhờ có hệ thống ASXH, cuộc sống của người nông dân luôn được bảo vệ và bao bọc bởi một mạng lưới an toàn, giúp cho xã hội không có sự loại trừ, điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và bất ổn định xã hội.

Để có thể lý giải rõ hơn về vai trò này, trước hết chúng ta cần nhận thức một cách toàn diện hơn về đối tượng “nông dân”. Nông dân, hơn ai hết, là những người cần được Nhà nước quan tâm nhiều nhất trong xã hội, bởi lẽ họ là những người rất dễ gặp rủi ro, mà khả năng chống đỡ của người dân nông thôn trước những biến cố về thiên tai, dịch bệnh, ốm đau và những biến cố trong cuộc sống còn hạn chế, dẫn tới dễ bị tổn thương, dễ rơi xuống nghèo đói. Trong cuộc sống, dân cư nông thôn, nhất là những người nghèo thường phải đối mặt với ốm đau, bệnh tật. Hơn nữa, nguồn thu nhập chính của người nông dân là từ nông nghiệp với năng suất lao động thấp, không ổn định do thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh và những biến động giá cả của thị trường, thiếu việc làm. Tất cả những nguyên nhân đó dẫn tới cuộc sống của người nông dân luôn trong tình trạng cần được xã hội bảo vệ. Và hệ thống ASXH đối với nông dân đang được triển khai và thực hiện nhằm giúp người nông dân phòng ngừa, đối mặt và khắc phục với rủi ro mà họ gặp phải. ASXH góp phần ổn định đời sống của người nông dân. Hệ thống ASXH sẽ góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất việc làm, hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường. Hay nói cách khác, hệ thống ASXH đối với nông dân đang tạo ra một mạng lưới an toàn nhằm bảo vệ những đối tượng yếu thế này. Như chúng ta đã biết, ở nước ta, nông dân chiếm tới 80% dân số. Vì thế, cuộc sống người nông dân ổn định, nghĩa là phần lớn xã hội ổn định. Do đó hạn chế mức tối thiểu những hiện


tượng gây nên sự bất ổn về mặt chính trị - xã hội hoặc có khả năng trực tiếp gây nên sự bất ổn định chính trị - xã hội, ví dụ như nhân dân khiếu kiện, biểu tình chống đối; lực lượng phản động gây bạo loạn… từ đó tạo nên một xã hội ổn định về chính trị.

Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân trong thời đại hiện nay đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, vì nó ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị của một quốc gia. Hơn nữa, chính sự ổn định chính trị lại tạo tiền đề cho ổn định và tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong ASXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Chính sách ASXH đối với nông dân, cụ thể là các chính sách trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất, các chính sách liên quan đến bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản cho dân cư nông thôn góp phần giúp người nông dân đảm bảo những điều kiện sống tối thiếu, giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo và có cơ hội vươn lên, tạo nên công bằng trong xã hội.

Nhờ có chính sách ASXH đối với nông dân, việc cân đối, điều chỉnh nguồn lực cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển được Nhà nước hết sức chú trọng, tạo nên sự phát triển hài hoà, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; mở rộng chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, hạn chế bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư.

Thứ ba, đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững. ASXH đối với nông dân tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của đất nước bởi lẽ việc bảo đảm ASXH đối với nông dân nói riêng và hệ thống ASXH nói chung là nền tảng của phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua việc áp dụng các cơ chế điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế và các nhóm dân cư, đặc biệt với nhóm đối tượng nông dân, hệ thống ASXH đã tạo ra một giá đỡ giúp đảm bảo thu nhập cho người nông dân thông qua các chính sách, chương trình giảm nghèo. Hơn nữa, nhờ các chính sách hỗ trợ lao động nghèo, người thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn có việc làm và tham gia thị trường lao động hoặc chương trình việc làm tạm thời cho lao động bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm ở nông thôn, lao động


thuộc các hộ nghèo hoặc cận nghèo, người nông dân có cơ hội cải thiện thu nhập, đảm bảo đời sống kinh tế mỗi cá thể nói riêng, kinh tế nông thôn nói chung, qua đó tạo tiền đề để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Thêm vào đó, khi tham gia vào thị trường lao động, người nông dân được đóng góp công sức, tạo ra của cải cho xã hội, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Như vậy, không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng cho xã hội mà họ còn là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế.

Nhờ việc hoạch định và thực hiện chính sách ASXH nói chung và việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH với nông dân nói riêng, các mục tiêu tăng trưởng hiệu quả và bền vững phù hợp với một quốc gia được Chính phủ lựa chọn. Một hệ thống ASXH lâu dài, đầy đủ có thể thực hiện mọi mục tiêu tái phân phối của xã hội, giải phóng các nguồn lực trong dân cư. Từ đó tạo điều kiện khai thác hiệu quả nhất các nguồn lực, đặc biệt nguồn nhân lực hiện tại, giúp thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đặt ra.

Hệ thống ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Quỹ ASXH, trong đó có quỹ BHXH là nguồn tài chính tập trung khá lớn, được sử dụng để chi trả các chế độ cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Hệ thống ASXH đối với người nông dân ngày càng hoàn thiện, đời sống người nông dân được nâng cao hơn, người nông dân ngày càng có cơ hội tham gia vào các quỹ ASXH một cách chính thức, vừa đảm bảo cuộc sống cho họ, vừa giúp nguồn tài chính của an sinh dồi dào hơn, thúc đẩy việc đầu tư sinh lợi nhuận, làm gia tăng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện chi trả các chế độ, cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ ASXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

Như trên đã đề cập, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH góp phần tạo nên một chế độ chính trị ổn định, qua đó tạo điều kiện cho nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh bởi lẽ đối với các nhà kinh tế trong hay ngoài nước, khi tìm kiếm môi trường đầu tư, họ không chỉ quan tâm đến các cơ hội kiếm lời về kinh tế, mà họ còn đặc biệt chú ý tới các yếu tố ổn định về mặt xã hội. Một xã hội ổn định sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển lâu dài, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển bền vững.

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 02/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí