Thu Nhập, Tiêu Dùng, Tích Lũy Và Đời Sống Của Người Dân Nông Thôn


số cả nước. Như thế, dân số khu vực nông thôn mặc dù giảm về tỷ lệ, nhưng giảm chậm, số lượng dân cư nông thôn vẫn còn rất lớn. Đây cũng là vấn đề thách thức đối với việc phát triển hệ thống ASXH khu vực nông thôn (xem Phụ lục 4.3).

Cơ cấu dân số theo độ tuổi khu vực nông thôn cũng có sự biến đổi. Từ nay đến 2020, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-64) khu vực nông thôn có xu hướng tăng lên; đồng thời, tỷ lệ NCT từ 65 trở lên cũng tăng từ 6,72% năm 2009 lên 7,3% năm 2019 (xem Phụ lục 4.4). Việc tăng tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tạo cơ hội để tăng số người có khả năng tham gia vào hệ thống ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng; song, việc tăng tỷ lệ NCT từ 65 trở lên đặt ra những thách thức trong trợ cấp ASXH cho đối tượng này.

Trình độ học vấn của người lao động khu vực nông thôn rất thấp. Đến năm 2009, có tới 15,9% lực lượng lao động khu vực này chưa tốt nghiệp tiểu học (thậm chí có đến 5,7% lực lượng lao động chưa đi học). Bậc học càng cao khả năng theo học của người dân nông thôn càng giảm (xem Phụ lục 4.5).

Vì trình độ văn hóa thấp, nên tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn cũng không cao. Trong tổng số 35,4 triệu lao động ở khu vực nông thôn chỉ có 8,8% lực lượng lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, tương đương với 32,3 triệu lao động nông thôn chưa qua đào tạo. (Phụ lục 4.6)

Nói cách khác, trong 35,4 triệu người tham gia vào thị trường lao động trong khu vực nông thôn chỉ có 3,1 triệu lao động được đào tạo và phần lớn trong số này mới chỉ đạt trình độ trung cấp. Mặc dù, số lượng lao động có trình độ đào tạo bậc đại học đứng thứ 3 trong tổng số lao động ở nông thôn, nhưng phần lớn những người này không được đào tạo theo hình thức chính quy, tập trung mà theo phương thức vừa học vừa làm.

4.1.1.3. Thu nhập, tiêu dùng, tích lũy và đời sống của người dân nông thôn

Về thu nhập. Trong thời gian vừa qua với những nỗ lực của Nhà nước trong quản lý và điều hành nền kinh tế, thu nhập của người dân được cải thiện qua từng năm ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu với tư cách là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo điều kiện để người dân Việt Nam nâng cao thu nhập. So với năm 2006, (năm trước khi gia nhập WTO) thì thu nhập của người dân Việt Nam năm 2010 tăng gấp khoảng hơn 2 lần ở


cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Tuy nhiên, nhóm càng nghèo thì mức độ tăng càng thấp. Cụ thể là, so với năm 2006 thu nhập của nhóm nghèo năm 2010 chỉ cao hơn 1,92 lần, nhưng thu nhập của nhóm giàu tăng lên 2,19 lần trong giai đoạn này. Chính vì vậy mà khoảng cách chênh lệch giữa nhóm giàu (5) và nhóm nghèo (1) trong khu vực nông thôn đã thay đổi từ 6,5 lần lên đến 7,5 lần trong giai đoạn 2006 - 2010 (xem Phụ lục 4.7).

Khi xét về thu nhập của người dân nông thôn ở 6 vùng kinh tế trong cả nước, Đông Nam Bộ là vùng mà thu nhập của người dân nông thôn là cao nhất, còn trung du và miền núi phía Bắc là khu vực mà người dân nông thôn có thu nhập thấp nhất. Thu nhập bình quân của người dân nông thôn vùng Đông Nam Bộ năm 2010 cao hơn khoản 2,5 lần so với thu nhập của người dân nông thôn khu vực trung du và miền núi phía Bắc ở cùng năm (xem Phụ lục 4.8).

Vì thu nhập bình quân của người dân khu vực Đông Nam Bộ hàng tháng là khoảng 1,8 triệu đồng/người/tháng nên nhóm có thu nhập thấp nhất ở khu vực này, nhóm người nghèo ở khu vực này có thu nhập cao hơn các nhóm nghèo ở 5 vùng kinh tế còn lại, thậm chí thu nhập của nhóm người nghèo ở Đông Nam Bộ cao hơn 3 lần so với nhóm nghèo ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, Tây Nguyên (xem Phụ lục 4.9).

Về chi tiêu cho đời sống. Thu nhập tăng, tạo điều kiện để người dân nông thôn tăng các khoản chi tiêu cho việc đảm bảo cuộc sống bao gồm các khoản chi cho đời sống và các khoản chi khác. Nếu năm 2006 mỗi tháng một người dân nông thôn chỉ tiêu dùng khoảng 400.000 VNĐ, thì đến năm 2010 số tiền bình quân một người dân khu vực nông thôn sử dụng để chi tiêu là khoảng 950.000 VNĐ với 93,7% số tiền này được dùng để chi đảm bảo đời sống như chi cho lương thực thực phẩm của gia đình, chất đốt, ăn ngoài gia đình, uống hút; các khoản chi cho quần áo, giày dép, nhà ở, điện, nước, vệ sinh, y tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, thể thao giải trí, đi lại và bưu điện… Còn lại khoảng 6,3% số tiền để chi cho việc mua sắm các đồ dùng hay sử dụng các dịch vụ khác. Như vậy, sự tăng lên của thu nhập tạo điều kiện cho người dân nông thôn tăng thêm các khoản chi đảm bảo đời sống hàng ngày kể cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối trong tổng nguồn chi (xem Phụ lục 4.10).


Nếu trong khu vực nông thôn, tỷ lệ chi cho ăn uống trong tổng nguồn chi của người dân cao hơn các khoản chi ngoài ăn uống, thì đối với khu vực thành thị, mặc dù số tiền thực tế chi cho ăn uống cao hơn khu vực nông thôn nhưng tỷ phần chi cho ăn uống lại nhỏ hơn chi cho các khoản khác trong tổng chi tiêu của họ. Nói cách khác, dù đã tăng thu nhập, tăng tiêu dùng nhưng phần lớn các khoản chi đời sống của người dân nông thôn tập trung đảm bảo tình trạng sức khỏe thông qua ăn uống. Các khoản chi nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần vẫn còn nhiều khó khăn ở khu vực nông thôn (xem Phụ lục 4.11).

Về tích lũy. Từ năm 2008 đến nay, tình hình kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng gặp phải những vấn đề về khủng hoảng, lạm phát… các khoản chi tiêu của người dân vì thế tăng, ảnh hưởng đến khả năng tích lũy của các hộ gia đình ở khu vực thành thị và nông thôn. Nói cách khác, dù thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2010 tăng 2,12 lần so với năm 2006 nhưng do chi tiêu lại tăng 2,37 lần ở những năm tương ứng nên tích lũy của người dân khu vực nông thôn năm 2010 giảm 9,4% so với năm 2006, thậm chí khả năng tích lũy của người dân nông thôn năm 2010 còn thấp hơn 4,4% so với năm 2002 (xem Phụ lục 4.12).

Về tình trạng nhà ở và các tiện nghi phục vụ sinh hoạt hàng ngày của người dân nông thôn. Vì tích lũy của người dân nông thôn là thấp, trung bình mỗi người dân nông thôn hàng tháng tích lũy được khoảng 120.000 đồng/người/tháng, số tiền dành dụng để sửa chữa nâng cấp nhà cửa của họ là không cao. Do đó, mới chỉ khoảng 50% tổng số hộ dân nông thôn được sống trong các ngôi nhà kiên cố, còn lại họ đang sống trong các ngôi nhà bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố và thậm chí còn khoảng 7% số hộ gia đình đang sống trong những nhà đơn sơ ở khu vực này [91].

Cũng do tích lũy thấp, nên hầu hết các hộ gia đình nông thôn mới chỉ sở hữu những vật dụng thiết yếu để giúp cho họ có được thông tin (như TV, điện thoại), cũng như di chuyển để đảm bảo việc (như xe gắn máy). Còn những vật dụng mà khi sử dụng nó sẽ tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần như bình nóng lạnh, máy giặt, máy điều hòa, máy vi tính, dàn nghe nhạc… thì còn hạn chế ở trong các gia đình nông thôn. Nói cách khác, những vật dụng này chỉ tồn tại ở một bộ phận nhỏ có thu nhập khá giả trong khu vực nông thôn (xem Phụ lục 4.13).

Về điện nước phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Mặc dù hầu hết các hộ gia


đình nông thôn đều được tiếp cận tới hệ thống điện lưới. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít các gia đình trong khu vực nông thôn sử dụng các loại đèn và các phương tiện phát sáng khác cho sinh hoạt. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng các phương tiện phát sáng ngoài điện lưới có xu hướng giảm.

Đối với người dân nông thôn, nước sinh hoạt hàng ngày chủ yếu được lấy từ các giếng khoan, giếng xây và nước mưa. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy công cộng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Qua số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê ta thấy, tình trạng các hộ gia đình sử dụng nước cho sinh hoạt có liên quan đến thiết bị máy móc tăng lên, các nguồn nước dùng cho sinh hoạt không liên quan đến thiết bị công nghệ có xu hướng giảm (xem Phụ lục 4.14).

Tình hình trên cho thấy, trong khu vực nông thôn, số lượng nhân khẩu và lao động còn rất lớn mà thu nhập của khu vực này còn rất thấp, đời sống vật chất và tinh thần của người dân còn rất khó khăn. Đây sẽ là thách thức lớn đối với việc phát triển hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta những năm tới.

4.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân

Trước những vấn đề xã hội nảy sinh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là những tác động của khủng hoảng kinh tế những năm 2009- 2012, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 4 năm 2012, đã đặt vấn đề chính sách xã hội lên bàn nghị sự. Sau Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, ngày 01 tháng 6 năm 2012 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có Nghị quyết số 15- NQ/TW về chính sách xã hội cho giai đoạn 2012 - 2020, trong đó chính sách ASXH là một trọng tâm.

Về quan điểm, Nghị quyết chỉ rõ các quan điểm của chính sách xã hội nói chung, chính sách ASXH nói riêng là: “1) Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. 2) Chính sách ưu đãi người có công và ASXH phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. 3) Hệ thống ASXH phải đa dạng, toàn diện, có tính


chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng. 4) Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Ðồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. 5) Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách ASXH”.

Để thực hiện các quan điểm trên, ngày 01 tháng 11 năm 2012, Chính phủ đã có Nghị quyết 70/NQ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2012 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI: Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 70) [4]. Chương trình hành động của Chính phủ đã cụ thể hóa các định hướng, giải pháp của Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2012. Trong lĩnh vực ASXH, Nghị quyết 70 đã nêu 12 giải pháp là: “1) Tiếp tục thực hiện Luật Việc làm trình Quốc hội; rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động; triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề. Nghiên cứu thí điểm và tiến tới nhân rộng chương trình việc làm công. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Dạy nghề; cơ chế, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội; 2) Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011 - 2020; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo; 3) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng đa dạng hóa các hình thức BHXH, mở rộng đối tượng tham gia các loại hình BHXH, khuyến khích nông dân và người lao động trong khu vực phi chính thức tham gia BHXH; tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật về BHXH; hoàn thiện thể chế quản lý, nâng cao hiệu quả và bền vững của quỹ BHXH; 4) Xây dựng mức


sống tối thiểu, mức sống trung bình, chuẩn nghèo, cận nghèo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ làm cơ sở xác định các đối tượng và mức chuẩn của các chính sách ASXH; 5) Tổ chức thực hiện tốt Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật; Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)…; các văn bản quy phạm pháp luật và các chương trình, đề án, dự án có liên quan đến chính sách ASXH. Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đổi mới công tác trợ giúp thường xuyên và đột xuất. Củng cố nâng cấp hệ thống cơ sở BTXH. Phát triển các mô hình chăm sóc đối tượng BTXH dựa vào cộng đồng. Phát triển mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội; 6) Tiếp tục hoàn thiện chính sách về giáo dục. Triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án về giáo dục; chú trọng đối tượng là người nghèo, người cận nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số; nghiên cứu xây dựng và triển khai Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 năm tuổi; 7) Củng cố và tăng cường mạng lưới y tế cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới và hải đảo bảo đảm cho mọi người dân tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, nhất là với bà mẹ và trẻ em dưới sáu tuổi. Tiếp tục triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, nhất là tiêm chủng mở rộng; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em; phòng chống lao và HIV/AIDS. Sửa đổi, bổ sung Luật BHYT theo hướng khuyến khích người cận nghèo và người có thu nhập dưới mức trung bình tham gia BHYT; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về BHYT;

8) Triển khai thực hiện Chiến lược Phát triển nhà ở quốc gia đến 2020, tầm nhìn 2030, chú trọng hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, người lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên; 9) Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn bảo đảm mức tối thiểu về nước sạch cho người dân; 10) Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; củng cố phát triển mạng lưới thông tin cơ sở, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; 11) Xây dựng mã số ASXH để phát triển hệ thống thông tin về chính sách ASXH; xây dựng bộ chỉ số ASXH quốc gia và bộ cơ sở dữ liệu hộ gia đình để phát triển hệ thống


giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách ASXH; định kỳ hàng năm xây dựng báo cáo quốc gia về ASXH và báo cáo đối với các nhóm đặc thù, nhất là dân tộc thiểu số và giới; 12) Đẩy mạnh xã hội hóa huy động nguồn lực thực hiện chính sách ASXH; khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào cung cấp các dịch vụ ASXH; tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách ASXH”.

4.2. PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NÔNG DÂN NHỮNG NĂM TỚI

Xuất phát từ thực trạng tham gia của nông dân vào hệ thống ASXH ở nước ta những năm qua, từ thực trạng kinh tế - xã hội nông dân hiện nay và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta như trên, tác giả đề xuất phương hướng tăng cường sự tham gia của nông dân vào ASXH những năm tới là:

4.2.1. Tăng cường thu hút sự tham gia của nông dân vào an sinh xã hội

4.2.1.1. An sinh xã hội theo nguyên tắc đóng - hưởng

Kết quả ở chương 3 cho thấy, trong giai đoạn vừa qua số lượng người tham gia ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng không ngừng gia tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia vào hai hệ thống nói chung còn rất thấp. Mặc dù, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều trong việc vận động, tuyên truyền và ban hành các quy chế nhằm hỗ trợ người dân tham gia vào hệ thống BHTN. Các hoạt động này đã làm nâng cao nhận thức của người dân. Tuy nhiên, tài chính và phí tham gia hiện đang là rào cản lớn nhất đối với người dân nói chung, nông dân nói riêng để tham gia vào hình thức này nhằm được chủ động an sinh. Thực tiễn điều tra cho thấy, chỉ có những hộ giàu và khá trở lên mới có đủ điều kiện kinh tế tham gia BHXHTN. Nhận định của cán bộ quản lý được điều tra ở 3 tỉnh cho rằng phần lớn nông dân không có đủ tiền để tham gia vào hệ thống BHXHTN và BHYTTN mặc dù họ nhận thức được lợi ích thiết thực khi tham gia vào hai hình thức này. Điều này, một lần nữa tái khẳng định khi nhìn vào cách giải thích của người nông dân, vì sao họ chưa tham gia vào hệ thống này. Nếu như đối với hộ giàu, khả năng tài chính và mức phí tham gia hầu như không có ý nghĩa nhiều đến quyết định có tham gia của họ hay không, thì các hộ có thu nhập từ trung bình trở xuống cho rằng thu nhập thực tế của họ không đảm bảo cho khả năng tham gia của họ vào hệ thống này. Nói cách khác, nông dân chưa tham gia vào hệ thống BHXH và BHYT tự nguyện bởi họ không có tiền để đóng phí tham gia.


Bảng 4.1: Ý kiến của nông hộ về khả năng tham gia vào hệ thống BHTN từ khía cạnh tài chính của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh


Tỷ lệ (%)


Hộ giàu

Không có tiền để đóng BHXHTN

0,0

Không có tiền đóng BHYTTN

0,0


Hộ khá

Không có tiền để đóng BHXHTN

43,5

Không có tiền đóng BHYTTN

21,7


Hộ trung bình

Không có tiền để đóng BHXHTN

84,8

Không có tiền đóng BHYTTN

74,4


Hộ cận nghèo

Không có tiền để đóng BHXHTN

90,0

Không có tiền đóng BHYTTN

81,8


Hộ nghèo

Không có tiền để đóng BHXHTN

96,4

Không có tiền đóng BHYTTN

84,6

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam - 17

Nguồn: Kết quả điều tra, khảo sát của tác giả.

Từ đó chúng tôi cho rằng, việc mở rộng phạm vi bao phủ và nâng cao mức độ tác động ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng đối với nông dân cần hướng vào những vấn đề sau:

Thứ nhất, tăng cường tổ chức triển khai huy động đối tượng giàu và khá trong khu vực nông thôn tham gia BHXHTN. Mặc dù ý kiến khảo sát cho thấy, nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước thì có thể thu hút được một số lượng lớn người nông dân tham gia BHXHTN. Tuy nhiên, nếu thực hiện trợ giúp như thế thì số kinh phí là rất lớn và khả năng tài chính của Nhà nước không cho phép. Vì thế, việc mở rộng BHXHTN phải dựa vào sự đóng góp của người dân, trong những năm trước mắt là các hộ giàu và hộ khá. Nếu công tác tổ chức triển khai vận động tốt thì việc mở rộng phạm vi tham gia BHXHTN ở đối tượng giàu và khá sẽ có triển vọng thực hiện được.

Thứ hai, nâng cao mức độ tác động của ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng. Đối với BHXHTN, cần có chính sách đảm bảo thu nhập cho người hưởng lương hưu tối thiểu bằng tiền lương tối thiểu. Đối với BHYTTN, cần nâng cao chất lượng KCB bằng thẻ BHYT đối với nông dân. Cần bổ sung chính sách hỗ trợ kinh phí về ăn ở và đi lại cho bệnh nhân nghèo, đặc biệt là bệnh nhân có sổ hộ nghèo và trong diện thiếu đói

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 02/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí