hệ quả cuộc tìm kiếm ấy mang lại một cuộc giao lưu về văn hóa. Sự va chạm Đông - Tây, Pháp - Việt đã được lí giải ở một góc nhìn mới. Ở đấy, văn hóa Việt đã tìm được phương cách biến đổi, hóa giải những nguồn văn hóa khác nhau mà không đánh mất chính mình.
Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết bao quát nhiều vấn đề, vừa có lịch sử, xã hội (giai đoạn Pháp đánh vào thành Hà Nội cuối thế kỉ XIX), vừa chạm tới cả những khía cạnh thuộc nhân sinh, thế sự (câu chuyện tình yêu của người đàn bà Việt trong khung cảnh ngôi làng cổ, vừa bao dung, cay đắng, vừa mãnh liệt, “vừa đầy chất phồn thực, bi hài quyện với mộng mơ và cao thượng” [23]) và trên hết là cái nhìn về văn hóa - phong tục Việt Nam thể hiện qua cuộc sống của những người dân quê ở một làng cổ thuần chất. Tái hiện một giai đoạn lịch sử nhiều bi thương qua lăng kính văn hóa - phong tục, Nguyễn Xuân Khánh bổ sung thêm một cách nhìn, nêu ra một kiến giải khác: sự trường tồn của dân tộc suy đến cùng cũng vẫn lấy ở cái gốc văn hóa mà ra. Tuy không phải lúc nào cũng bộc lộ thành sức mạnh trực tiếp, song cội nguồn của bản sắc và sức sống một dân tộc là ở nền văn hóa bản địa đã hình thành và được gìn giữ lưu truyền hàng nghìn năm, không dễ mai một. Phải chăng đó cũng là sự luận giải của nhà văn về vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kì hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Đội gạo lên chùa là câu chuyện về ngôi chùa Sọ ở vùng làng quê Bắc Bộ. Đây là nơi chứng kiến biết bao biến động dữ dội qua những giai đoạn khác nhau, với những con người mang số phận phức tạp. Cha mẹ đều bị giết trong những trận càn của thực dân Pháp, hai chị em Nguyệt và An dắt díu nhau rời xóm Giếng và tìm đến chùa Sọ mong nương nhờ cửa Phật. Từ chỗ ban đầu còn lạ lẫm bỡ ngỡ, dần dần ngôi chùa đã trở thành gia đình mới của hai em. Nguyệt cũng có ý xin được xuống tóc đi theo con đường tu hành, nhưng sư cụ trụ trì Vô Úy nhận thấy chị còn vướng nhiều duyên nợ với đời
nên không đồng ý. Dù không được sư cụ chấp nhận nhưng Nguyệt một lòng gắn bó với chùa, tâm hồn luôn hướng thiện. Cậu bé An thì khác, ngay từ lúc mới đến đã được các sư thầy trong chùa đón nhận. Sư cụ Vô Úy nhận ra An có duyên với nhà Phật nên đã đồng ý thu nhận để cho cậu theo con đường tu tập. Tại đây, hai chị em đã cùng các sư vãi và mọi người chứng kiến những thăng trầm biến động của ngôi chùa cũng như của dân làng. Những đồn bốt được giặc dựng lên ngày càng dày đặc. Không khí căng thẳng ngột ngạt bao trùm lên làng quê nghèo nhỏ bé. Những tên chỉ huy khét tiếng của giặc là Đại úy Thalan, Trung úy tây lai Bernard đã gieo rắc bao nhiêu căm phẫn. Sự bắt bớ, tra tấn và cái chết là những điều dân làng phải đối mặt hàng ngày. Nhưng rồi không hiểu nhờ sức mạnh từ đâu tất cả đều được vượt qua. Có người trẫm mình xuống giếng, có người phát điên, có người phải bạt xứ mà bỏ đi... Con sông thành chiến địa, đêm tối là không gian, mỗi người là một du kích, nhà chùa là nơi trú ẩn.... Bằng cách đó ngôi chùa và làng quê đã vượt qua những bão tố của thời đoạn đó một cách bền bỉ, thể hiện một sức sống mạnh mẽ.
Cả ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh đều được viết bởi nhiều cảm hứng đan xen, hòa quyện vào nhau. Cảm hứng lịch sử - văn hóa giữ vai trò chủ đạo nhưng luôn dung chứa trong đó mạch cảm hứng thế sự của đời sống nhân sinh muôn thuở.
2.3. Nhân vật lịch sử - văn hóa
“Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [14]. Nghiên cứu về nhân vật, ở một góc độ nào đó chính là thao tác tìm hiểu cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa và lí giải về con người, nhất là con người đặt trong tác phẩm văn
Có thể bạn quan tâm!
- Tiểu Thuyết Lịch Sử Trong Đời Sống Tiểu Thuyết Việt Nam Đương Đại
- Đề Tài Lịch Sử - Văn Hóa Và Thông Điệp Thế Sự
- Cảm Hứng Lịch Sử - Văn Hóa Và Suy Tư Thế Sự
- Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh - 8
- Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh - 9
- Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh - 10
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
chương. Nghiên cứu nhân vật - con người trong tác phẩm nghệ thuật cũng là một hành trình nhận thức - khám phá nhiều tín hiệu mới xoay quanh cuộc sống con người. Trong các thể loại văn xuôi tự sự, nhân vật đóng một vai trò tối quan trọng. Đó là sức sống của thể loại. Toàn bộ tài năng nghệ thuật của nhà tiểu thuyết nằm ở chỗ, trên trục vận động của diễn biến cốt truyện, nhân vật phải làm chủ mọi cảnh huống, mọi tình thế, phát triển theo quy luật nội tại của nó. Cách kể chuyện của nhà tiểu thuyết phải làm sao hòa vào các nhân vật, hòa vào từng nhân vật và thế giới riêng của nó, kể về nhân vật bằng ngôn ngữ của nó, bằng tiết tấu của chính nó.
Đối với tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là nơi thử thách và cũng là để khẳng định tài năng của nhà văn rõ nhất. Nhà văn từ những tư liệu sử học có khi chỉ là một vài dòng khắc trên bia đá, hay chỉ là một cái tên, mà phải thổi hồn vào đó khiến nhân vật có thể đi lại, nói năng, bộc lộ tình cảm, cảm xúc để phục vụ cho tư tưởng của nhà văn. Nhân vật thành công là nhân vật không đi quá xa sử liệu mà vẫn phải phù hợp với thị hiếu người đọc đương đại.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh gắn bó mật thiết với mối quan tâm của nhà văn về đề tài lịch sử và văn hóa dân tộc, nằm trọn vẹn trong ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa. Nguyễn Xuân Khánh đã kiến tạo thế giới nhân vật phong phú, chứng tỏ tài năng bậc thầy trong cách tổ chức, xây dựng nhân vật và biết cách để nhân vật làm chủ trang viết. Tác giả rất kì công trong việc tổ chức đời sống cho nhân vật. Mỗi cuốn sách có số lượng lên đến hàng trăm nhân vật rất phong phú bao gồm: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật lịch sử, nhân vật hư cấu, nhân vật người trí thức, nhân vật nông dân, nhân vật ngoại quốc, nhân vật tín ngưỡng, tôn giáo… Nhưng mỗi nhân vật đều có màu sắc và đường nét rõ ràng, không bị ràng buộc hay trùng lặp.
Ba cuốn tiểu thuyết c ủ a N g u y ễ n X u â n K h á n h mang cảm thức
“luận giải” trong diễn ngôn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Đặt trong cảm thức luận giải ấy, hình ảnh các nhân vật luận đề - tư tưởng đã vượt lên công thức “phát ngôn” khô cứng thông thường mà trở thành mẫu hình nhân vật rất sống động, bộc lộ cái nhìn đa diện trong suy nghĩ và nhận thức cũng như quan điểm của nhà văn trước những biến thiên lịch sử - xã hội.
2.3.1. Nhân vật lịch sử
Nhân vật lịch sử là những con người có bản lĩnh, tài trí và khát vọng hơn người. Tính cách của họ làm ảnh hưởng và thay đổi lịch sử. Họ là những người đóng vai trò mở đường. Dù con đường ấy có thể thành công hay thất bại, nhưng họ vẫn đại diện cho tầm vóc và ao ước của dân tộc, tên tuổi của họ đã được ghi vào sử sách. Có người trở thành anh hùng của thời đại, có người thất bại nhưng họ đã khẳng định vai trò của mình đối với lịch sử. Vì vậy, những khát vọng của họ rất đáng được trân trọng. Trong một cuốn tiểu thuyết lịch sử, kiểu nhân vật này chính là dụng công lớn nhất của nhà văn và họ góp phần tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm. Đồng thời, cũng thể hiện những tìm tòi của nhà văn và góp phần lí giải tính tất yếu để nhận thức sâu hơn về quá trình vận động của lịch sử.
Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ vén bức màn thâm nghiêm của một giai đoạn đầy bão táp lịch sử, phục dựng lịch sử qua những chân dung con người mà quan trọng ông đã miêu tả và làm sống dậy tinh thần - khát vọng của lịch sử. Tinh thần và khát vọng ấy được thể hiện rõ nét trong hình tượng nhân vật trung tâm: Hồ Quý Ly. Trước khi trở thành nhân vật tiểu thuyết, Hồ Quý Ly đã là một nhân vật lịch sử. Do vậy, xây dựng chân dung Hồ Quý Ly - nhân vật nguyên mẫu của lịch sự hiện vẫn còn tồn tại nhiều tranh cãi, Nguyễn Xuân Khánh đã làm một cuộc tự thử thách chính mình. Hình tượng Hồ Quý Ly tiêu biểu cho kiểu nhân vật mang khát vọng xây dựng, cải cách, không phải bằng quan niệm đã có của lịch
sử cho thấy năng lực sáng tạo dồi dào và bản lĩnh của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, một cây bút tiểu thuyết có nghề. Cuốn tiểu thuyết gồm 13 chương, ngoài hai chương mở đầu và kết thúc, chương 9 và chương 10 (Minh Đạo I và II) trần thuật trọn vẹn về Hồ Quý Ly, các chương còn lại tập trung làm sáng tỏ thế giới nhân vật mà ở đó, Hồ Quý Ly vẫn là linh hồn và làm chủ mọi mối quan hệ phức tạp nhất.
Trước khi làm vua triều Hồ (1400 - 1407), Hồ Quý Ly đã đặt chân vào chính trường từ ba mươi năm trước đó, trong một bối cảnh lịch sử sóng gió: nhà Trần tiễu trừ quân phiến loạn của ông vua phường chèo Dương Nhật Lễ, lập Trần Nghệ Tông lên ngôi, rồi nhường ngôi cho cho Trần Ngung để về vị thế Thái thượng hoàng. Ba mươi năm làm Thái sư dưới triều Trần, Hồ Quý Ly vừa phải chèo chống con thuyền lịch sử vượt qua cơn bão táp, vừa phải đối phó với những người thuộc tôn thất nhà Trần, quân Chiêm Thành phía Nam, nhà Minh ở phương Bắc và lòng dân trăm họ. Đặt nhân vật này vào tình thế lịch sử không có nhiều lựa chọn, Nguyễn Xuân Khánh đã bộc lộc rất rõ khí chất của Hồ Quý Ly - một nhà chính trị có tài thao lược, quyền biến và kiệt hiệt, một nhà cải cách táo bạo, dám nghĩ dám làm. Giữa bối cảnh vận mệnh xã tắc đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, thù trong giặc ngoài: ở phía Nam, quân Chiêm Thành tiến ra giao chiến với nhà Trần, phía Bắc nhà Minh lăm le nhòm ngó, triều đình rối ren, diệt được quân phiến loạn Dương Nhật Lễ thì đến đồng đảng Phạm Sư Ôn kéo xuống Thăng Long trấn thủ… Hồ Quý Ly đã không một chút chần chừ, lập tức hành động, và chấp nhận mọi tổn thất vì: “Đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một thay đổi, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên, tàn nhẫn đấy, đau thương đấy, nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt cảnh đầu rơi máu chảy” [22; tr.486].
Tham vọng thay đổi cục diện của đất nước, giữ yên giang sơn và lòng dân của Hồ Quý Ly, xét một cách tích cực, đó là cuộc cách tân dân chủ vì lợi
ích bình đẳng của muôn dân. Ở phương diện này, Hồ Quý Ly thực sự là một trí thức mẫn cảm thời thế. Ông ban hành một loạt các chính sách như hạn điền: bắt người có ruộng tự cung khai, cắm biển đề tên chủ ruộng, ai thừa số quy định thì sung công. Ông không muốn trong dân gian có kẻ lang thang nên cho làm sổ hộ khẩu khắp nước, không sót một người dân nào để chú ý quản lý từng người dân, cấp đất cho họ làm ruộng… Rồi chính sách hạn nô cho phép nhà giàu chỉ giữ lại một số ít nô tì nhất định, còn lại trả về gia đình, sư sãi hoàn tục… Về mục đích, những chính sách cải tổ của Hồ Quý Ly đều nhằm tập trung sức người sức của để cứu nước khỏi cơn nguy khốn. Nhưng sai lầm của Hồ Quý Ly là ngay khi ban hành những chính sách ấy và ý thức rõ: “Phàm cái gì mới là người ta hay chống lại” [22; tr.491], ông đã vấp phải sự phản đối kịch liệt từ giới quý tộc nhà Trần và một bộ phận đông đảo tăng ni, phật tử của Phật giáo vốn là quốc giáo rất được lòng người trong những triều đại trước.
Với cá tính mạnh mẽ, dám đương đầu với sóng gió, Hồ Quý Ly đã không từ bỏ bất kì chính sách nào mà ông cho là đúng đắn, phù hợp. Ông quyết liệt đến tàn bạo, độc tài đến nghiệt ngã trước tình thế lịch sử đặt ra nên tất cả mọi người, từ tôn thất nhà Trần đến muôn dân đều căm thù ông như một bạo chúa. Là con người hành động, Hồ Quý Ly đã làm tất cả mọi việc để đạt được mục đích của mình. Ông sẵn sàng trừng phạt những kẻ đi ngược với thuận ý của mình, bất kể đó là người Quý Ly từng tôn trọng hay là người trong họ tộc ông hết lòng cưu mang, sủng ái. Hồ Quý Ly thẳng tay giết Nguyễn Đa Phương, người em kết nghĩa, con trai của thầy dạy; rồi thượng tướng Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, quan thái bảo Trần Nguyên Hàng, những tôn thất nhà Trần nổi tiếng khẳng khái, từng hiển danh trong cuộc kháng chiến chống quân Chiêm Thành, xây dựng Tây Đô, cũng chính Hồ Quý Ly đã có lần dành cho Trần Khát Chân nhiều lời khen ngợi: chững chạc,
chín chắn, một vị đô tướng tinh thông binh pháp và vô cùng bình tĩnh… Ở bậc đại trí thức như Hồ Quý Ly, tinh thần và khát vọng lịch sử không chỉ là hành động, mà còn là khát khao của một con người mang nỗi mặc cảm ngoại tộc nên luôn luôn củng cố niềm tin vào dòng dõi huyết thống của mình. Quý Ly dặn con trai Nguyên Trừng những lời đau đáu: “Trong đạo hiếu, việc làm rạng rỡ tổ tiên, làm cho tên tuổi của dòng họ vang danh, lưu truyền sử sách, đó chính là đại hiếu. Lúc nào trong tâm khảm con cũng phải nhớ con dòng dõi họ Hồ. Việc đổi sang họ Lê chỉ nhất thời; người quân tử cũng phải biết chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được” [22; tr.54].
Là con người khôn ngoan, luôn tính toán kín kẽ mọi chuyện, Hồ Quý Ly đã quyết định hôn nhân của con trai cả là Hồ Nguyên Trừng với Quỳnh Hoa - con gái của quan thái bảo Trần Nguyên Hàng “nhất thiết ông ta phải là thân gia với ta” để thu phục quan thái bảo, để ông ta thấu hiểu mình. Ngay cả ý định lập thêm kinh đô mới, một nơi địa thế hiểm trở, có thế dựa lưng vào núi cũng vì ông đang chứng kiến tận mắt sự thối ruỗng của vương triều nhà Trần và tự đặt câu hỏi: “so với một triều đại mới được dựng lên, được quét sạch lũ tham quan ô lại, được tổ chức cứng rắn, được hết lời bàn ra tán vào, thì hỏi hai triều đại ấy bên nào tốt hơn, mạnh hơn?” [22; tr.105]. Khát vọng của Hồ Quý Ly là khát vọng của một nhà chính trị có tinh thần tự nhiệm, dám tranh biện với cái cũ, cái trì trệ và tranh biện với chính mình để củng cố niềm tin vào con đường mình đang đi. Sự tỉnh táo đến lạnh lùng, sự đa nghi đến mức tàn độc ở Thái sư đã khiến ông càng ngày càng lún sâu vào canh bạc chính trị, và để thực hiện khát vọng đổi mới đất nước, Hồ Quý Ly chấp nhận bước qua những rào cản mà với ông, nó cũng đau đớn như chính lúc làm đau mình và làm đau người khác.
Trái ngược hoàn toàn với Hồ Quý Ly, ông vua già Nghệ Tôn (tên húy là Trần Phủ, con thứ ba của vua Trần Minh Tôn, mẹ là Lê Thị, cô của
Quý Ly), người rất mực tin tưởng Quý Ly, cũng là một nhân vật tư tưởng nửa vời, mang khát vọng của một con người muốn “giữ yên” bánh xe lịch sử. Khi lịch sử đặt lên vai ông trọng trách gánh vác cơ nghiệp nhà Trần, Trần Phủ đã khước từ vì “Từ lúc còn trẻ, ta vốn không có chí làm vua. Ý nguyện của ta chỉ mong cho đất nước được thanh bình, hết loạn li…” [22; tr.114]. Được muôn dân ủng hộ và các bậc tôn thất nhà Trần kính trọng, lúc ở trên ngai vàng, vua Trần Nghệ Tôn rất chú trọng đến văn hiến, cư xử trọng thị với các bậc danh nho, mong cầu người hiền tài… Nhưng dầu biết đất nước có nhiều vấn đề phải thay đổi tận gốc rễ, ông vẫn không muốn làm vì sợ nhiễu sự. Ông chỉ muốn giải quyết mọi việc theo nề nếp tổ tông, ông vua phải là khuôn mẫu của sự nhân từ, thương dân… Triều đình trong ba năm ông cai trị mọi việc đều suôn sẻ vì đã có những thủ túc thân tín bên cạnh. Nhưng khi đối mặt với kẻ thù ngoại bang, quân Chiêm Thành lăm le tiến đánh, ông nhường ngôi cho em là Trần Kính, xưng vua Duệ Tông, còn ông lên làm Thái thượng hoàng. Nghệ Hoàng cũng không tránh khỏi những va chạm khốc liệt của lịch sử. Cái chết của ông vua già cũng là minh chứng cho sự tàn lụi của một vương triều yếu đuối, bạc nhược và đầy lo âu trong từng bước đi lịch sử.
Nhà chép sử Sử Văn Hoa mặc dù là nhân vật hư cấu, nhưng lại là nhân vật tư tưởng có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện các quan điểm của lịch sử. Thái độ của người trí thức và sự lựa chọn trước những khúc quanh của lịch sử được thể hiện rất rõ trong nhân vật này. Trong suốt thiên tiểu thuyết, kể từ khi xuất hiện ở chương I, trải qua nhiều cơn tao loạn đến lúc chết, Sử Văn Hoa vẫn bộc lộ tâm hồn ngay thẳng, trung thực ngay giữa mối quan hệ phức tạp của các phe phái đối lập. Nhân vật gây ấn tượng với người đọc bởi những suy tư sâu sắc về lịch sử: “Sử là hồn núi hồn sông. Sử là tinh túy của đất nước. Dân tộc nào biết chép sử càng sớm càng có nhiều