Ngôn Ngữ Gần Gũi Với Ngôn Ngữ Đời Sống Thông Tục


CHƯƠNG 4: NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975


Nhà văn Tô Hoài từng phát biểu: “Tôi cho rằng truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết nhiều nết quý lắm. Chỉ với truyện ngắn, người ta mới biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. (…). Truyện ngắn đòi hỏi hoàn thiện. Ở đây, ta được rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy” [110, tr.8-9]. Quả thực, truyện ngắn không phải là nơi để kể lể dài dòng, rườm rà, nguyên tắc của nó là cô đọng, chưng cất những gì tinh túy, bản chất nhất của đối tượng trong một khối lượng câu chữ ít nhất, do đó, việc tận dụng, săn sóc từng câu, từng chữ là một đòi hỏi bắt buộc đối với người viết ở thể loại này. Ngắn gọn, súc tích là đặc trưng quan trọng của ngôn ngữ truyện ngắn. Và qua từng giai đoạn, ngôn ngữ truyện ngắn cũng có những chuyển động, biến đổi phù hợp với cách sử dụng ngôn ngữ của đời sống, phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của bạn đọc. Trong chương này, chúng tôi đi vào phân tích hai đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, đó là sự gần gũi với ngôn ngữ đời sống thông tục và tính chất giao thoa thể loại trong ngôn ngữ.


4.1. NGÔN NGỮ GẦN GŨI VỚI NGÔN NGỮ ĐỜI SỐNG THÔNG TỤC


Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ đời sống được chọn lọc và mài giũa một cách nghệ thuật trong tác phẩm. Văn chương mỗi thời đại sẽ phản ánh lời ăn tiếng nói, lối ứng xử với ngôn ngữ dân tộc của cộng đồng và phong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Bên cạnh những yếu tố tương đối ổn định, bền vững, thì sự chuyển động, tính chất thời sự, cập nhật cũng thể hiện rất rò trong ngôn ngữ của các tác phẩm. Trong giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ý thức chính trị, ý thức công dân chi phối mạnh mẽ đời sống con người, và điều đó thể hiện rò nét qua ngôn ngữ. Những vấn đề được trao đổi nhiều nhất, những điều được trăn trở nhất trong câu chuyện của mỗi người là “lý tưởng”, “cống hiến”, “tòng quân”, “chiến đấu”, “hi sinh”, v.v… Theo khảo sát của tác giả chuyên luận Truyện ngắn hiện đại Việt Nam 1945 – 1975 thì “Các nhân vật trong tác phẩm ai


cũng suy nghĩ, nói năng như một chính trị viên, một nhà hoạt động tư tưởng thấm nhuần đường lối cách mạng. Từ đời sống xã hội đến đời sống văn học, mảng ngôn ngữ chính trị xã hội trở thành hệ thống ngôn ngữ đặc trưng thông dụng trong giao tiếp lúc bấy giờ” [146, tr.264]. Với việc đề cao chức năng giáo dục, sứ mệnh tuyên truyền cho đường lối cách mạng, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng thời kháng chiến thường là những diễn ngôn đứng bên trên đời sống thông tục, có tính chất cao quý, hướng đạo đối với xã hội, nhân tâm. Từ sau năm 1975 đến nay, cùng với sự chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử - xã hội và tâm thế của con người thời đại, ngôn ngữ truyện ngắn ngày càng vận động theo xu hướng bình đẳng với ngôn ngữ đời sống – một đời sống thông tục, đa dạng, phong phú, xô bồ với rất nhiều sắc thái khác nhau trong lời ăn tiếng nói của công chúng. Khoảng cách giữa ngôn ngữ truyện ngắn và ngôn ngữ đời thường ngày càng thu hẹp lại, thậm chí, trong nhiều tác phẩm, ranh giới giữa chúng bị xóa nhòa. Điều này được thể hiện trên hai phương diện: phương diện từ ngữ và phương diện cú pháp.


4.1.1. Trên phương diện từ ngữ

Có thể quan sát thấy trong truyện ngắn sau 1975 sự nhạt dần, thưa thớt dần của lớp từ chính trị xã hội, cùng với đó là sự gia tăng lớp từ ngữ thông tục, suồng sã của đời sống hàng ngày. Con chim biết chọn hạt của Nhật Tuấn (viết năm 1978) ca ngợi Hoa – một cô gái năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất và quyết đoán trong ứng xử, nhưng không tô điểm cho Hoa bằng những lời hoa mỹ, không bắt nhân vật phải gồng lên trong một hình ảnh hoàn hảo, mà cho cô xuất hiện với những lời lẽ rất tự nhiên, chân thật của đời thường, phù hợp với tâm trạng. Trước thông tin mình bị liệt vào “phần dôi ra” về nhân sự của công ty, khi Hoàng – người yêu cô, cũng là thư ký giám đốc đến nhà, phản ứng của Hoa được thuật lại trong một loạt phát ngôn: “Cô cau mày lạu bạu: - Không hiểu cái thằng ngu nào đang đề nghị giám đốc xếp em vào loại nhân lực dôi ra. Thật sôi tiết lên được”; “Cô gặng: - Sao? Anh thấy chuyện ấy thế nào? Làm sao mà anh cứ ngồi ì ra như thế?”; “Cô cảm thấy đằng sau câu nói của anh có một cái gì lùng nhùng, đặc sệt rất khó chịu. Ôi giời, thây kệ.

Cô cáu tiết: - Thì bây giờ ra sao anh cứ nói toẹt ra”… Ngôn ngữ nhân vật ở đây


được xây dựng hết sức sinh động, lột tả đúng tâm trạng bực bội, khó chịu của cô khi cảm thấy bị đối xử không công bằng. Để rồi sau đó, trước ứng xử nhanh nhạy, thông minh của cô tại phòng giám đốc, người đọc biết được tài năng và tâm huyết của Hoa với công việc chung nên đã hiểu được căn nguyên thái độ cáu kỉnh, cục cằn ấy của “con chim biết chọn hạt” giữa một môi trường làm việc còn nhiều trì trệ, lạc hậu, tâm lý an bài và bàng quan với yêu cầu của thời đại. Đó chính là điểm khác biệt về ngôn ngữ của truyện ngắn giai đoạn này so với trước năm 1975. Ở giai đoạn trước, nhân vật tích cực bao giờ cũng hiện lên trong ngôn ngữ miêu tả, kể chuyện gắn với sắc thái trang trọng của thái độ ngợi ca, và bản thân ngôn ngữ nhân vật cũng chỉn chu, chuẩn mực, ít khi chứa đựng những lời lẽ suồng sã. Ta hãy quan sát sự khác biệt trong ngôn ngữ miêu tả sự hiện diện của một người phụ nữ trong mắt một người đàn ông ở hai trích đoạn truyện ngắn của hai giai đoạn trước và sau năm 1975:


Mảnh trăng cuối rừng


(Nguyễn Minh Châu - 1970)

Một chiều dông gió


(Ma Văn Kháng – 1997)

Trong ánh đèn gầm hắt xuống mặt đường hiện ra ngay trước mũi xe một đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chấm mắt cá. "Ra vẻ cô này không phải con người lao động rồi - Tôi nghĩ - Hay là người ta đi thăm chồng hay thăm người yêu thực?".

Tôi chui từ gầm xe, đưa hai tay dụi mắt:

- Chào cô, lần sau nếu xe dừng, cô đừng nhảy xuống như thế này nhé!

- Nhưng mà ngồi trong ấy mùi cao su

khét quá, anh cho em đứng ngoài này

Con bướm bay từ đầu kia của sợi dây phơi, nơi căng bộ quần áo lao động của Tua, tới đầu này thì dừng lại, vẩn vơ một nét phấp phới phiêu bồng, rồi nhẹ nhàng dang rộng đôi cánh lớn, nhón chân hạ xuống. Ở đó, một chiếc may-ô con gái màu hồng mở khép nép bên cạnh chiếc quần phụ nữ toả bóng đen tuyền lấn át khiến chiếc quần lót mỏng mảnh xinh xinh màu hạt dẻ chỉ còn lấp ló và nhè nhẹ đung đưa theo cảm hứng hoan lạc của chiếc nịt ngực phổng phao hai vầng

tròn mẩy mang màu trắng tuyết, ngát

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Nhìn từ góc độ thể loại - 17



thở một tý.


Qua làn ánh đèn tù mù của đoàn xe xích lao đi ầm ầm bên cạnh, tôi kịp nhận thấy vẻ xinh đẹp của cô gái, một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà. Cô ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai dải. Chiếc làn và chiếc nón mới trắng lóa khoác ở cánh tay một cách nhẹ nhàng.

thơm như hoa.


- Hà!


Tua bật tiếng reo thầm sau cả một chặng dài nín thở dòi theo đường bay của con bướm, như một linh hồn xa lạ vừa tạo nên cảnh tượng siêu thường. Tua bừng dậy, lâng lâng. Tua sung sướng. Tua sẽ lại như kẻ nhập đồng khi cơn dông gió nổi chiều qua.

Cả hai đoạn trích đều thể hiện ấn tượng của một người đàn ông về sự xuất hiện một người phụ nữ (ấn tượng về Nguyệt của Lãm trong Mảnh trăng cuối rừng và ấn tượng của Tua về Thoa trong Một chiều dông gió), nhưng trong khi Nguyệt hiện lên trong ngôn ngữ ngữ miêu tả chứa đựng nhiều tính từ bao hàm một thái độ đánh giá (thiện cảm, ngợi ca) về vẻ đẹp chỉn chu, trong trẻo, dịu dàng, thì Thoa xuất hiện lần đầu ở công trường của Tua bằng ngôn ngữ miêu tả bộ quần áo gợi nên tính nữ và nhục thể, bất thần làm dấy lên trong Tua những cảm giác khác lạ có phần bản năng. Vậy là: một bên là ngôn ngữ miêu tả trực tiếp gắn với những tính từ thể hiện sự đánh giá, khen ngợi; một bên là ngôn ngữ gợi tả gắn với những tính từ diễn tả cảm xúc, cảm giác bột phát về đối tượng. Và nếu xét trong quan hệ với ngôn ngữ đời sống, rò ràng trích đoạn tác phẩm của Ma Văn Kháng có sự gần gũi, xuề xoà hơn với bạn đọc. Đó cũng là xu hướng vận động chung của ngôn ngữ truyện ngắn đương đại: diễn tả đời sống trong tính hiện thực, trong tất cả sự xù xì, thô nhám, góc cạnh, thậm chí tục tằn của nó, khước từ lối diễn đạt trang trọng, ước lệ, thuần khiết. Truyện ngắn thời kỳ chống Mỹ thường dùng các từ ngữ chứa đựng biện pháp ngoa dụ, hoán dụ kết hợp với các thán từ (thể hiện thái độ ngợi ca hay căm thù) trong khi


miêu tả đối tượng. Chẳng hạn, trong Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành ví đôi mắt T’nú trong căm thù sôi sục như “hai cục lửa lớn”, bàn tay cụ Mết thì “nặng trịch như một kìm sắt”; Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng mang vẻ đẹp “mát mẻ như sương núi”… Còn trong truyện ngắn đương đại, các nhân vật thường hiện lên trong sự miêu tả gắn với tính hiện thực, sinh động, và được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau. Khuôn mặt của cô gái Ngọc yêu trong Những người thợ xẻ được miêu tả kỹ lưỡng đến từng chi tiết: “Nàng bé nhỏ, mặt tròn, lông mày rậm, có một nốt ruồi sau cổ cách tai phải chừng bốn phân. Tất cả đường nét trên khuôn mặt nàng đều khá rò ràng: đôi môi, cánh mũi, cả những đường viền”. Người đàn bà bị rượt đuổi, đánh đập, chạy vội vào ghe của bố con Nương trong Cánh đồng bất tận cũng hiện lên lần đầu trong một hình hài được miêu tả tỉ mỉ: “Môi chị sưng vểu ra, xanh rờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt. Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu”, và trong tiến trình câu chuyện, người đàn bà ấy đã nhiều lần được Nương quan sát và miêu tả, từ nhiều tư thế, nhiều bối cảnh khác nhau. Biểu hiện nhân vật với những từ ngữ tả chân một cách sinh động trong sự vận động, biến đổi và từ các góc nhìn khác nhau, đó chính là điểm cho thấy ngôn ngữ truyện ngắn gắn bó ngày càng mật thiết với ngôn ngữ đời sống.

Sự thông tục hoá ngôn ngữ truyện ngắn như vậy xuất phát từ thế giới quan, quan niệm về xã hội – đạo đức – thẩm mỹ của các nhà văn: con người thời đương đại phải đối diện với trạng thái vỡ mộng trong hành trình đi tìm cái đẹp tuyệt đích và bị bao vây bởi một hiện thực hỗn độn, ngổn ngang, ở đó không còn những “đại tự sự”, tất cả các diễn ngôn bị đời thường hóa, cá nhân hóa đến tận cùng. Giữa bình thường – nhan đề một truyện ngắn của Nguyễn Mạnh Tuấn đã nói lên khuynh hướng vận động chung của tư duy và ngôn ngữ con người trong văn học thời kỳ này: văn học không còn là khúc hát ca ngợi thời đại anh hùng mà trở về gần với cái bình thường, ngôn ngữ văn học được bình dân hóa, dân gian hoá. Nhiều nhà văn đưa vào trong tác phẩm của mình với hàm lượng lớn lối nói khẩu ngữ quen thuộc trong dân gian. Y Ban là một trường hợp tiêu biểu. Các nhân vật trong truyện của bà


thường phát ngôn theo kiểu suồng sã: “Mày không xùy tiền ra đây thì đi ra công an” (Tiếng khóc thiên thần I), “Mày lừa bà hơi bị ngoạn mục đấy con nhỉ” (Hành trình của tờ tiền giả), “Đi thôi ông tướng. Sao lại nghệt mặt ra vậy” (Hàng khuyến mại), “Thôi bố già, đĩ non ơi, đưa nhau vào bên lề mà lau nước mắt cho nhau” (Chuyện bên barie)… Điều này cũng xuất hiện khá nhiều trong truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Thôi. Thằng Toản cụt mày đọ thế nào được với chị. Nói một câu xin, chị khao cả hội nhòe nước trắng và nem chua. Hôm nay chị vừa có mầu – Hoài khủng khiểng” (Xin hãy tin em), “Sáng nay cho mấy thằng bạn mượn, nó din ba cầu, sợ công an đuổi chúng phóng nhanh nên đâm nhau què rồi. Chốc em xin tiền mẹ đi thay mấy thứ, mông má lại. Em hỏi rồi, mất hơn hai triệu thôi” (Nước mắt đàn ông), “Thề à? Tại sao giữa thời buổi này mà mày còn tin là có lời thề? Tao đây này. Nếu là nó, tao cũng sẽ ăn cắp và hỏi đến tao cũng thề. Khối con đàn bà, ngủ với trăm thằng đàn ông xong, lừa được một “con gà” vẫn vừa khóc vừa thề rằng em còn trinh, hiểu chưa? – Nó dằn giọng nói một hơi rồi cười phá lên, khả ố” (Dĩ vãng)… Cách nói dân dã, đầy chất sống ấy đã khiến cho nhân vật trở nên sống động, và tác phẩm gần với cuộc đời hơn bao giờ hết.

Trong xu thế xích lại gần với ngôn ngữ đời sống, ở một số tác phẩm, cái bỗ bã, tục tằn – điều mà văn chương trước kia thường né tránh, coi như một thứ cấm kỵ đối với nghệ thuật – đã xuất hiện rất tự nhiên và khá dày đặc. Điều này được thể hiện qua những từ ngữ chỉ chất thải, chỉ hành vi phóng uế, những từ thô tục chỉ bộ phận kín của con người, những tiếng chửi thề, văng tục. Đó là trong truyện của Phạm Thị Hoài: “Mồ hôi anh như mùi hố xí hai ngăn” (Second hand), của Y Ban: “Con bé Thơm bị ma nó dắt đi đến chỗ lội nó định dìm chết con bé. May lúc con ma nó buồn ỉa. Thế là con bé mới thoát” (Đi chợ sớm), “Đêm qua mơ chó đuổi chạy té cứt ra quần” (Đổi đời)… Đặc biệt, trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, tinh thần thông tục hóa ngôn ngữ văn chương được đẩy lên một mức rất cao. Nhân vật của nhà văn này, từ người bình dân cho đến các đấng bậc, các anh hùng vua chúa hay nhân vật của cổ tích, huyền thoại… đều bình đẳng với nhau về giá trị trong lời nói, đều có thể suồng sã, tục tĩu bất cứ lúc nào. Tinh thần “giải thiêng”, “giải cấu trúc”


được ông thể hiện trong các hình tượng không chỉ qua hành động và tâm lý mà còn in đậm trên ngôn ngữ. Đó là những tiếng nhiếc móc của trùm Thịnh, của Tảo trong Chảy đi sông ơi: “Thằng ngu như chó, trời rét thế này về mà nằm ổ”, “Chèo gì lạ thế? Đã sợ vãi đái ra quần rồi hả?”. Đó là Bường với vẻ lọc lòi trong Những người thợ xẻ: “Bản chất của mày là một thằng trí thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! Cút mẹ mày đi!”. Đó là vua Gia Long trong Phẩm tiết với những tiếng chửi thô lỗ trước Vũ Văn Toàn: “Thằng khốn nạn theo voi ăn bã mía kia, đểu cáng chừng nào”, “Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho mày ăn cứt!”. Đó là Trương Chi với tiếng nói cửa miệng “Cứt!” và quan niệm “cuộc sống của chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng, mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc”. Đó là chú Hảo trong Đời thế mà vui với những lời thóa mạ: “Nước mắt đàn bà! Nước đái bò!”, “Đồ đĩ! Đồ mặt chó! Nói thế cũng nói!”, v.v… Theo Phùng Gia Thế - tác giả bài viết Tính chất Carnaval trong ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam đương đại, “sự dung hợp các thể loại lời nói suồng sã trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên thực tế đã mang lại một màu sắc dân chủ mới trong văn xuôi. Đặc tính của cách hành ngôn ngày có thể tìm thấy trong hầu hết các tác phẩm của ông, tạo thành một biểu hiện của phong cách” [154, tr.101], đó cũng là một dấu hiệu cho thấy văn xuôi Việt Nam đã bước sang địa hạt của chủ nghĩa hậu hiện đại. Lối viết ấy một mặt cho thấy sự gần gũi của văn chương với đời sống, nhưng đồng thời, nó cũng vấp phải những phản ứng gay gắt của một bộ phận độc giả cho rằng nhà văn đã làm mất đi vẻ đẹp, sự cao quý của ngôn ngữ văn học.

Phản ánh đời sống đa dạng, nhiều chuyển biến của thời kỳ mới, trong truyện ngắn đương đại cũng xuất hiện một hệ thống ngôn ngữ hoàn toàn mới so với giai đoạn trước, đó là lớp từ về các phương tiện, vật dụng và lối sống hiện đại, về công nghệ thông tin, mạng Internet. Sự khốn khó về vật chất của một cô gái trẻ đương đại trong Sinh nhật của Chu Thùy Anh hiện lên không phải qua miếng cơm manh áo mà bằng tình tiết trong ngày sinh nhật: “Huyên trả hóa đơn bằng thẻ, nhẩm tính chắc trong tài khoản còn vừa đủ để trả khoản này. Ba hôm nữa Huyên sẽ lại có lương, tài khoản sẽ lại nhích khỏi con số không. Từ giờ đến ba hôm nữa thì Huyên


đã có đồ ăn trong tủ lạnh”, “Bỗng dưng điện thoại Huyên kêu báo có tin nhắn. Tin từ nhà cung cấp dịch vụ. Không mở ra đọc Huyên cũng biết tin nhắn báo điện thoại đã hết tiền từ ba tháng nay, và nếu không nạp thêm thì Huyên sẽ bị khóa số máy này”. Điện thoại, tài khoản là những thứ gắn liền với cuộc sống hiện đại, đặc biệt là với những người trẻ, đã được tác giả 8X chú trọng nhấn mạnh để thể hiện những lo toan, tính toán của nhân vật Huyên, đặc biệt là trong “bữa tiệc” sinh nhật một mình cô tự tổ chức cho chính mình. Trong truyện Người cùng chung cư của DiLi, cuộc sống của những người thanh niên hiện lên đầy màu sắc. Đây là căn phòng của Miên: “giấy bồi tường màu be, đồ gỗ xanh ghi, giá sách đựng các loại ấn phẩm chuyên ngành và đĩa CD nhạc cổ điển, tủ quần áo có đúng 15 bộ (…). Trong tủ lạnh luôn có sữa tươi không đường, bơ thực vật, cà chua bi và một ít bánh mì gối”, hàng xóm của cô – Mỏ Neo – thì “nghe thứ nhạc remix của các DJ vũ trường”, còn Lam Vi hiện lên trong hình ảnh “quần cạp trễ, áo quai treo kiểu Maryline Monroe, tóc tỉa hai tầng sợi ghi sợi vàng, móng tay đính cườm lóng lánh, nước hoa Elizabeth Arden, túi xách hiệu Louis Vuitton mà bên trong có lẽ chỉ đựng chiếc điện thoại và tuýp son bóng”. Đó là những chi tiết, hình ảnh đặc trưng cho lối sống và phong cách của một lớp thanh niên ở đô thị trong thời buổi công nghiệp hóa và mở cửa của đất nước. Ảnh hưởng của Internet, của mạng xã hội như một phần tất yếu trong cuộc sống của các nhân vật này cũng được tác giả đề cập với “blog”, “Interest”, “Mien.com”, “friendlist”, “ảnh tượng”, “click chuột”, “tin nhắn”…

Một số truyện đã phản ánh lối nói pha tiếng nước ngoài trong đời sống đương đại. Chẳng hạn, trong Mãi không tới núi của Nguyễn Việt Hà, “Nắng chia nửa vạt rừng và Vọng lưỡng lự rút mô bai xem giờ. Mười sáu giờ kém bốn phút. Màn hình không có sóng cả Vinaphone lẫn Mobiphone. Thói quen hay được xung quanh nhớ đến làm Vọng thở dài”. Trong Chuyện sáng ngày 1 tháng 4 của Nguyễn Ngọc Thuần có đoạn đối thoại:

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí