Việt được bảo tồn đến ngày hôm nay. Trong mấy trăm năm trở lại đây, ba tác phẩm nói trên được in lại nhiều lần, chứng tỏ tư tưởng nhập thế tích cực, sống đời vui đạo, quên mình vì người vẫn tiếp tục được quan tâm xiển dương dù cho Phật giáo cũng như đất nước đã chuyển sang giai đoạn mới. Sức hấp dẫn về mặt nghệ thuật cũng như giá trị lý luận, giá trị tư tưởng nhân văn của các tác phẩm trên là rất lớn, cho dù lưỡi búa thời gian có nghiệt ngã bao nhiêu và ngọn lửa bạo tàn của giặc ngoại xâm có tàn ác bao nhiêu cũng không thể nào phá huỷ, tiêu diệt được tư tưởng nhân văn của Việt Nam. Bởi vì nó đã trở thành tinh hoa có ảnh hưởng tác động sâu rộng đến truyền thống tốt đẹp của dân tộc và được nhân dân trân trọng giữ gìn từ xưa đến nay.
Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông là hai tác phẩm thuộc thể phú và ca, nhưng xét về góc độ tư tưởng thì hai tác phẩm này tập trung trình bày các vấn đề về nhân sinh quan và giải thoát luận của Thiền Phật, nội dung tư tưởng ấy được thể hiện bằng một ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo và được viết bằng tiếng Việt. Điều này có nghĩa, xét đến cùng, dù chúng được viết theo thể loại phú, ca nhưng lại mang tính chất của luận thuyết Phật giáo. Điều này chứng tỏ tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ dân tộc có khả năng đảm nhiệm mọi chức năng vốn có của ngôn ngữ rồi. Và đương nhiên nó cũng đã trở thành một ngôn ngữ văn học thực thụ. Lịch sử đã ghi nhận công lao vinh dự này là của Trần Nhân Tông. Một điều đáng lưu ý là những tác phẩm vô giá được sáng tác bằng tiếng Việt này cũng góp phần vào việc bảo vệ và gìn giữ linh hồn văn hoá của dân tộc Đại Việt, ngăn chặn âm mưu đồng hoá về văn hoá của các đế chế xâm lược.
Chỉ đơn cử hai tác phẩm đó thôi, chứ chưa nói đến các tác phẩm thơ, phú, ngữ lục, văn xuôi, văn thư ngoại giao hiện còn, cũng đủ để chứng minh vị trí quan trọng của các tác phẩm của vị sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm đời Trần trong nền văn học dân tộc.
Tư tưởng Phật ở trong lòng (Phật tại tâm), liễu ngộ tự tính, quên mình vì nước vì dân, sống đời vui đạo, từ bi, hỷ xả, nhập thế tuỳ duyên, lợi lạc chúng sinh đã biến thành những mạch cảm hứng chính mà các tác gia thuộc bộ phận văn học Phật giáo đã sáng tác để tạo nên một nhánh rất riêng của văn học Việt Nam: văn học Phật giáo. Nước Đại Việt thời Trần hưng thịnh phồn vinh, Phật giáo đời Trần hưng thịnh cực độ, các vị vua Trần như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là Phật tử chân chính, có trình độ Phật học vững chải, giác ngộ Thiền đạo, lấy tinh thần từ bi hỷ xả của Phật pháp giáo hoá con dân. Nhưng rõ ràng là tinh thần từ bi thời này không đi đôi với thái độ tiêu cực, yếm thế mà chính là tinh thần đại
Hùng, đại Lực, đại Từ bi của Đức Phật. Nguyễn Lang đã đúc kết tinh thần Phật giáo Trúc Lâm như sau:
“Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập; uy tín và tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hoá Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ, Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương diện tư tưởng tổ chức, cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo khiến cho nó chỉ là một giáo hội Việt Nam, phục vụ cho người Việt, duy trì và bồi đắp cá tính Việt. Chính vì nhận thức được điều ấy mà nhà Minh vào đầu thế kỷ thứ mười lăm đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hoá xây dựng trong suốt gần 150 năm của đời Trần. Trương Phụ lượm lặt gần hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng bảy năm Mậu Tuất (1418) nhà Minh còn sai hai cán bộ văn hoá của họ là tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo của họ sang để thay thế cho số sách trước kia đã bị họ lấy mất. Chính sách tiêu diệt văn hoá thâm độc đó đã phá hoại gia tài tinh thần của triều Trần để lại không phải là ít.” [107,tr.376-377]
Các đế chế phong kiến phương Bắc với chính sách huỷ diệt văn hoá một cách triệt để đối với nước ta có thể nói là một chính sách thâm độc và bạo ngược đã từ bao đời không thay đổi, xưa cũng như nay. Nhà Minh cũng vậy, từ khi chiếm được nước ta hồi đầu thế kỷ XV thì chính sách này càng được áp dụng triệt để hơn, hòng thủ tiêu nền văn hoá độc lập lâu đời của dân tộc ta: “Phàm quốc thư của ta – các sách của ta từ thời Lý - Trần, quân Minh thu hết đem về Trung Quốc để thủ tiêu, và phát các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tinh lý đại toàn để cho các học hiệu phủ châu huyện cho học sinh ta học, theo hẳn chương trình học của Trung Quốc.” [6,tr.299]
Thủ đoạn này của phong kiến phương Bắc đã làm cho một số di sản văn hoá vô giá lâu đời của dân tộc ta bị tiêu huỷ và mất mát rất nhiều. Trong những di sản đó, có những bi ký, những tác phẩm lịch sử, văn học, nghệ thuật, quân sự từ khi lập quốc đến nay, nhất là di sản thời Lý - Trần. Căn cứ vào sách Lịch triều hiến chương loại chí mục Văn tịch chí của Phan Huy Chú thì những sách vở của nước ta từ thời Trần trở về trước bị nhà Minh lấy đem về Trung Quốc như sau: Hình thư 3 quyển của Lý Thái Tông; Quốc triều thông lễ 10 quyển, Hình luật 1 quyển của Trần Thái Tông;
Có thể bạn quan tâm!
- Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh Với Sự Kế Thừa Và Phát Triển Tư Tưởng Thiền Phái Trúc Lâm Đời Trần
- Sự Kế Thừa Và Phát Triển Tư Tưởng Thiền Phái Trúc Lâm Trong Tác Phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh
- Vị Trí Của Tác Phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh
- Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại - 25
- Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại - 26
- Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại - 27
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
Thường lễ 10 quyển, Ngự thi 1 quyển, Di hậu lục 2 quyển, Cơ cừu lục 1 quyển, Thi tập 1 quyển, Trung hưng thực lục 2 quyển của Trần Nhân Tông; Thi tập 1 quyển của Trần Minh Tông; Trần triều đại điển 2 quyển của Trần Dụ Tông; Bảo Hoà điện dư bút 8 quyển của Trần Nghệ Tông, Thi tập 1 quyển; Binh gia yếu lược 1 bộ, Vạn Kiếp bí truyền 1 bộ của Trần Hưng Đạo; Tiều Ẩn thi 1 tập, Tứ thư thuyết ước 1 bộ của Chu Văn Trinh; Sầm Lâu tập 1 quyển của Trần Quốc Toại; Lạc đạo tập 1 quyển của Trần Quang Khải; Băng Hồ ngọc hác tập 1 quyển của Trần Nguyên Đán; Giới Hiên thi tập 1 quyển của Nguyễn Trung Ngạn; Giáp Thạch tập (Hiệp Thạch tập) 1 quyển của Phạm Sư Mạnh; Cúc Đường di thảo 2 quyển của Trần Quang Triều; Thảo nhàn hiệu tần 1 quyển của Hồ Tôn Vụ; Việt Nam thế chí 1 bộ, Việt sử cương mục 1 bộ; Đại Việt sử ký 30 quyển của Lê Văn Hưu; Phi sa tập 1 quyển của Hàn Thuyên; Nhị Khê thi tập 1 quyển của Nguyễn Phi Khanh, v.v..
Vì thế mà những di sản văn hoá tư tưởng quý báu thời Lý - Trần nói chung, các tác phẩm văn học có giá trị lớn của Thiền phái Trúc Lâm nói riêng bị mất mát rất nhiều. Do vậy, những giá trị văn hoá tư tưởng đích thực của Thiền phái Trúc Lâm từ cuối thời Trần về sau dần dần ít được biết đến. Việc Ngô Thì Nhậm và các đạo hữu của ông viết tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanhlà một việc làm thiết thực, có ích và có ý nghĩa rất lớn trong việc xiển dương tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, đồng thời cũng là cách bảo lưu, giữ gìn tài sản văn hoá quý báu của dân tộc.
Như ở chương 2 và 3 đã trình bày, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một tác phẩm nằm trong dòng chảy của bộ phận văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại, có giá trị lớn về văn chương và tư tưởng triết học của văn học nước nhà cuối thế kỷ
XVIII. Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một thành tựu đáng ghi nhận, đánh dấu một bước phát triển dài của thể loại luận thuyết triết lý tôn giáo của văn học Phật giáo. Thể luận có vị trí quan trong trong tam tạng kinh điển Phật giáo. Thể luận là nguồn gốc sinh ra thể loại luận thuyết triết lý tôn giáo. Trong văn học Phật giáo, thể loại luận thuyết triết lý tôn giáo có vị trí trọng yếu, góp phần xác định vai trò của văn học Phật giáo trong nền văn học dân tộc. Như đã nêu, tác giả của tác phẩm là những danh sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ. Với đội ngũ tác giả uy tín như vậy cũng là một trong những yếu tố góp phần khẳng định vị trí của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trên văn đàn.
Về nội dung tư tưởng, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đánh dấu một bước tiến đáng kể, tiêu biểu cho mức tiến hoá tinh thần của người Việt, thể hiện được tầm
vóc tư tưởng của dân tộc ta cuối thế kỷ XVIII, nên tác phẩm này có vị trí không nhỏ trong lịch sử tư tưởng nước nhà.
Nếu đại thi hào Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều, cũng với mong mỏi khiêm tốn là mua vui cho độc giả chỉ được vài trống canh thôi, thì ngược lại, Nguyễn Đàm khẳng định một cách dứt khoát rằng, dư âm của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh sẽ vang vọng cùng trời đất, miên viễn với thời gian:
譬如伏蟄時,殷殷一聲雷.又如天風籥,山林之曲隈.日旦發在今,餘響震將來
. [tr 428, 429]. Thí như phục chập thời, Ân ân nhất thanh lôi. Hựu như thiên phong thược, Sơn lâm chi khúc ôi. Nhật đán phát tại kim, Dư hưởng chấn tương lai. (Ví như đom đóm ngủ, Tiếng sấm dội ầm ầm. Lại như sao trước gió, Khắp suối cùng sơn lâm. Ngày nay phát một tiếng, Dư âm vọng tương lai.)
Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Hải Lượng Ngô Thì Nhậm cùng các pháp hữu nhằm mục đích khôi phục và xiển dương tinh thần nhập thế vì dân vì nước của Thiền phái Trúc Lâm Phật giáo đời Trần, cho nên tác phẩm văn học này có vị trí vô cùng quan trọng và không thể thay thế được đối với Thiền phái Trúc Lâm nói riêng và văn học Phật giáo Việt Nam nói chung.
TIỂU KẾT
Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo nhất tông, đã tạo được khối đoàn kết toàn dân Đại Việt, góp phần quan trọng tạo nên nước Đại Việt phồn vinh, hưng thịnh thời Trần. Tư tưởng Phật ở trong lòng, liễu ngộ tự tính, quên mình vì nước vì dân, sống đời vui đạo, từ bi, hỷ xả, nhập thế tuỳ duyên, lợi lạc chúng sinh, biến thành những mạch cảm hứng chính mà các tác gia Phật giáo đã sáng tác, tạo nên một nhánh rất riêng và đặc sắc của văn học Việt Nam. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm và các pháp hữu ra đời với mục tiêu khôi phục và xiển dương tinh thần của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần, cho nên tác phẩm này có ý nghĩa rất lớn đối với văn học Phật giáo nói riêng, văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm chính là sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của nhiều danh sĩ tiếng tăm bậc nhất trong thế kỷ XVIII.
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một viên ngọc quý hiếm của kho triết học và văn học Việt Nam. Các tác giả của tác phẩm là Nho sĩ, Đạo sĩ, nhưng tất cả họ đều mộ Phật hành Thiền, nghiên cứu sâu Phật Pháp, có sở đắc nhất định, nên tác phẩm này có vị trí rất đặc biệt. Có thể nói được đây là một tác phẩm luận thuyết triết lý vô tiền khoáng hậu, có vị trí không thể thay thế được của văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại.
KẾT LUẬN
1. Ở Việt Nam thời trung đại, văn học Phật giáo là một trong những mạch chính, khơi nguồn cho dòng văn học viết Việt Nam. Trong dòng chảy đó, có tác phẩm luận thuyết triết lý Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh độc đáo của danh nhân văn hoá Ngô Thì Nhậm và các pháp hữu của ông.
Trong thế kỷ XVIII bối cảnh xã hội Việt Nam vô cùng loạn lạc, nội chiến liên miên, cảnh đầu rơi máu chảy diễn ra khắp nơi, quan lại tranh nhau hưởng thụ xa hoa, áp bức người dân, vơ vét của cải về mình; lại thêm thiên tai hạn hán, mất mùa đói kém, cuộc sống của nhân dân khổ không bút mực nào tả xiết. Những con người có tấm lòng, tài năng và hoài bão lớn muốn cống hiến hết sức mình để kinh bang tế thế, phụng sự cho đất nước, chăm lo cho đời sống của nhân dân như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Trinh, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Đàm, Ngô Thì Hoàng… nhìn thấu căn bịnh của thời đại và luôn trăn trở suy tư tìm phương pháp điều trị căn bịnh của thời đại này.
2. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một tác phẩm thuộc loại hình văn - sử - triết bất phân của thời trung đại, thể loại luận thuyết triết lý rất đặc sắc, mang đậm nét áo bí của tư tưởng phương Đông của văn học Việt Nam nói chung, văn học Phật giáo nói riêng. Tác phẩm ra đời năm 1796 tại Thiền viện Trúc Lâm, phường Bích Câu, Hà Nội. Tác phẩm chính là sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của nhiều danh sĩ tiếng tăm bậc nhất ở Thăng Long cuối thế kỷ XVIII nhằm giải quyết những vấn đề bất ổn của xã hội Việt Nam giai đoạn này. Nhìn từ góc độ này, chúng ta thấy được vai trò và giá trị không thể thay thế của tác phẩm.
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được sáng tác bằng chữ Hán, ngôn từ tinh luyện, cô đúc, lại viết về những vấn đề mang tính triết lý nên không dễ dàng đọc hiểu. Với thủ pháp nghệ thuật kiểu công án Thiền gắn với mỹ học Thiền - Đạo - Nho, tác giả thật sự đã đích thân trải nghiệm và thể hiện vô cùng sâu sắc những tinh hoa của cả ba hệ tư tưởng cổ đại lớn của nhân loại bằng nghệ thuật ngôn từ một cách mới mẻ, độc đáo.
3. Ngô Thì Nhậm là một danh nhân văn hoá và là tác gia lớn của văn học Việt Nam nủa cuối thế kỷ XVIII. Ông đã có những đóng góp to lớn ở nhiều lĩnh vực như: văn hoá, triết học, văn học, giáo dục, quân sự, chính trị, ngoai giao... Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là tác phẩm lớn cuối cùng của ông, là kết tinh chín muồi cả về nội dung tư tưởng lẫn bút pháp nghệ thuật của danh sĩ này. Nói như kiểu nhà Thiền, thì
tác phẩm này giống như “bài kệ truyền tâm ấn” của các thiền sư cho các đệ tử lúc sắp viên tịch. Bởi vì, tất cả những gì tinh tuý nhất cũng như cả tâm huyết của cả một đời tác giả đều gửi gắm hết vào đây.
Tám thanh đầu của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (chiếm 1/3 tác phẩm) là tám thanh căn bản của tác phẩm và chương Không thanh (chương 1) là chương trọng yếu của tám chương. Mười bốn thanh kế tiếp (từ Định thanh đến Hưởng thanh) nhằm quyết trạch những nghi lầm và mở rộng phương tiện cho phù hợp với tất cả các đối tượng tiếp nhận. Hai thanh kết thúc tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh làm nhiệm vụ của phần lưu thông, lưu hành không để tác phẩm mai một, gián đoạn.
Chữ Thanh là từ khoá quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, cũng là mấu chốt để thâm nhập vào toàn bộ nội dung tác phẩm. Thanh là tiếng, là lời nói, mà ở đây chính là giáo lý mà Ngô Thì Nhậm kế thừa từ chư Tổ của Phật giáo Trúc Lâm, truyền dạy cho đệ tử.
Với tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Hải Lượng thiền sư Ngô Thì Nhậm, những phạm trù quan trọng của triết lý đại thừa Thiền tông Phật giáo như: Chân tâm, Phật tính, Niết bàn, sinh tử, giải thoát, hữu vô, luân hồi, nhân quả, tịch diệt... được thể hiện một cách mới mẻ và thực tế, gần gũi và sáng rõ bằng nghệ thuật ngôn từ dưới nhãn quan của nhà Nho chân chính.
4. Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một viên ngọc hiếm hoi và quý giá của kho tàng tư tưởng và văn chương Việt Nam. Âm thanh là cảm hứng chính để sáng tạo nên tác phẩm. Bằng những thủ pháp nghệ thuật như: ẩn dụ, thí dụ, hoán dụ, thậm xưng, lạ hoá, so sánh… và sử dụng các điển tích, điển cố trong kinh điển của ba nhà, với những hình tượng nghệ thuật độc đáo, các tác giả đã dung hợp cả ba hệ tư tưởng trong quan niệm Tam giáo đồng nguyên của nội dung tác phẩm nhằm xiển dương tinh thần thực tiển và nhập thế cứu đời của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Thông qua bút pháp luận thuyết bậc thầy, các tác giả đã truyền tải một các tài tình hầu hết những nội dung cốt yếu của những bộ kinh điển quan trọng trong cả ba hệ tư tưởng như: các bộ kinh đại thừa Phật giáo như: Viên giác, Lăng già, Kim cang, Hoa nghiêm, Pháp hoa, Bát nhã, Lăng nghiêm, Duy Ma Cật…; Đạo Đức kinh, Nam Hoa kinh, Ngọc Hoàng cốt tuỷ… của Đạo gia; Tứ thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử), Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu)… của Nho gia. Nhưng chủ yếu nhất vẫn là kinh điển của nhà Phật và nhà Nho. Vấn đề liên quan đến ba hệ tư tưởng này là vấn đề đã được các bậc trí giả trong thiên hạ đã nói, đang nói và sẽ nói, nhưng phương pháp luận giải dung thông tư tưởng ba nhà quy về một mối dựa trên những
luận chứng cụ thể và thuyết phục rút ra từ chính kinh điển của ba nhà, mà chủ yếu là Phật và Nho một cách có hệ thống thì thật sự đã góp một tiếng nói vào lĩnh vực văn hoá tư tưởng của nước nhà.
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một tác phẩm rất lạ. Cái lạ thứ nhất là hiếm thấy một tác phẩm luận thuyết triết học nào của thời trung đại có đến năm người là đồng tác giả; Cái lạ thứ hai là kết cấu của tác phẩm gồm thanh dẫn, chính văn, thanh chú và thanh tiểu khấu và thêm phần Tam tổ hành trạng; Cái lạ thứ ba là thiền sư, đạo sĩ, nho sĩ cùng viết về Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm dưới tôn chỉ tư tưởng hoà đồng Tam giáo theo xu hướng “Dĩ Nho giải Phật”, “Khu Thích dĩ nhập Nho”.
Vấn đề về mối quan hệ giao lưu tiếp biến của Tam giáo nói chung, Phật - Nho nói riêng là một vấn đề mang tính lịch sử lâu dài và phức tạp trải gần hai mươi thế kỷ. Cho đến nay mối tương quan giữa Phật và Nho vẫn còn là vấn đề ít có đồng thuận giữa các nhà khoa học khi nghiên cứu về tư tưởng phương Đông. Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một đóng góp nhằm giải quyết mối quan hệ này. Vấn đề này cần được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu toàn diện hơn cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần vào việc giữ gìn văn hoá truyền thống và kế thừa những giá trị nhân văn hướng đến xây dựng một xã hội văn minh cả đời sống tinh thần và vật chất cho nhân loại nói chung, Việt Nam nói riêng.
Việc tìm hiểu tác phẩm luận thuyết triết học Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đậm chất áo bí nói chung, tinh thần Tam giáo trong tác phẩm nói riêng là một việc đòi hỏi người nghiên cứu không những chỉ am hiểu sâu sắc tư tưởng cả ba nhà Phật - Đạo - Nho mà còn phải tinh thông Hán học, cho nên việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm này là một nỗ lực rất lớn của người viết.
5. Ngô Thì Nhậm sáng tạo ra “kinh Viên giác mới” trên cơ sở vận dụng một cách nhuần nhuyễn và khéo léo những trải nghiệm bản thân về Phật, về Thiền cộng với tri thức Nho học vốn có của ông vào việc giảng giải một cách dễ hiểu những phạm trù uyên áo của nhà Phật theo xu hướng thực tiễn hoá, đơn giản hoá một cách rạch ròi, khúc chiết, làm cho người học dễ dàng nắm bắt và áp dụng vào việc xác định đường hướng tu tâm dưỡng tính hoàn thiện.
Với tông chỉ xiển dương tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, các tác giả không chỉ kế thừa những tư tưởng của kinh Viên giác, mà còn phát huy tinh hoa tư tưởng của các bộ kinh Đại thừa khác như: kinh Pháp hoa, kinh Bát nhã, kinh Kim cang, kinh Lăng già, kinh Hoa nghiêm, kinh Duy Ma Cật. Bằng những thủ pháp nghệ thuật như: nhân hoá, hoán dụ, thậm xưng, ẩn dụ, so sánh, phân tích, tác giả đã nghệ
thuật hoá một cách tài tình hầu hết những nội dung triết học khô khan, khó hiểu của kinh Viên giác trở thành những bài học thực tiễn bổ ích cho những người muốn hoàn thiện nhân cách đạo đức bản thân. Hai mươi bốn chương của phần chính văn tác phẩm là một công trình nghệ thuật ngôn từ tuyệt diệu, bút pháp đạt tới mức tinh tế, mỗi câu mỗi chữ đều có hàm ý sâu sắc, nhằm cảnh tỉnh người nghe, dẫn dắt người nghe quay về với chân tâm thanh tịnh sáng suốt, không bị ngoại cảnh mê hoặc, trói buộc.
Giá trị nội dung tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh còn thể hiện ở chỗ, toàn bộ tác phẩm là một lộ trình tu tâm dưỡng tính hoàn chỉnh và xuyên suốt, là con đường rèn luyện các phẩm chất đạo đức và trí tuệ đi đến toàn thiện, không chỉ phù hợp với thời đại ông sống, mà còn thích hợp với cả con người đương đại. Tám chương đầu tiên, tác giả chú trọng vào việc giác ngộ chân tâm thanh tịnh của mỗi người, tự tính của vạn pháp, bản chất của vạn vật (lý) để làm kim chỉ nam cho việc thanh lọc nội tâm, loại bỏ tạp niệm, khai thông căn bản trí tuệ (Bát nhã). Tám chương giữa là sự hoà quang đồng trần, thiên về tinh thần nhập thế, làm lợi ích cho chúng sinh theo kiểu Bồ tát hạnh, để phát huy trí tuệ và nâng cao đạo hạnh trong thử thách chướng ngại. Và tám chương kết chính là sự kiểm nghiệm lại toàn bộ sự trải nghiệm trong quá trình tu tập ở trên và xác định rõ ràng con đường, phương pháp đi tới tự do giải thoát.
6. Đặt tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, chúng ta mới thấy hết được vị trí của nó trong nền văn học nước nhà. Xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương đất nước, muốn đất nước được thái bình thịnh vượng, nhân dân an cư lạc nghiệp, ấm no hạnh phúc. Nhưng tâm huyết này, hoài bão này của Ngô Thì Nhậm và các pháp hữu của ông chưa thể thực hiện ngay được. Các tác giả nhận ra được một trong những nguyên nhân chính gây nên sự loạn lạc bất ổn của nước ta trong giai đoạn này là chỉ một mình triết lý Nho gia không những không thể giải quyết được những vấn đề bức thiết của xã hội, mà với những hạn chế vốn có của nó càng làm cho đất nước suy yếu thêm. Đó là chưa kể đến các tầng lớp Nho sĩ giữ vị trí quan trọng trong bộ máy triều đình điều hành đất nước có tâm địa hẹp hòi, cố chấp và tư lợi, ra sức đả kích Phật giáo làm cho nguyên khí của nước ta càng thêm hao tổn. Một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao vẫn là xu hướng dung hoà Tam giáo mà nước ta thời Trần thái bình hưng thịnh, còn thời này lại suy yếu và loạn lạc. Phải chăng là do tư tưởng Tam giáo thời Trần xem Phật giáo Thiền tông là xương sống, còn thời này Nho giáo chiếm ưu thế trên chính trường? Vì