dụng, bởi thực tế hiện nay, những loại thuốc, hóa chất đó người dân mua rất dễ dàng tại các đại lý thuốc bảo vệ thực vật hoặc được bày bán công khai ở các chợ.
- Người sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rò nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm. Cụ thể, những chất này sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tại điểm này hoặc điểm a khoản 1 Điều 317 BLHS năm 2015 mà còn vi phạm. Gần đây, thông tin gây xôn xao dư luận, người nông dân sử dụng thần dược siêu tăng trưởng HVP Ga3 để rau nhanh được thu hoạch. Loại thuốc siêu tăng trưởng HVP Ga3 không có trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam. GA3 là một loại chất kích thích mọc mầm cho cây. Từ năm 1995, Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (nơi cấp phép cho các hóa chất được sử dụng trong nông nghiệp) đã xếp GA3 nằm ở nhóm chất độc nhóm 3 và nhóm 4, nghĩa là nhóm có độc tính nhẹ. Vấn đề đặt ra, theo quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015 để cấu thành tội phạm này, chỉ cần người thực hiện hành vi phạm tội thỏa mãn mặt khách quan là đủ, nhà làm luật không “định lượng” cụ thể trọng lượng chất cấm được sử dụng là bao nhiêu; dư lượng kháng sinh vượt đến ngưỡng nào… là có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Trong khi đó, Nghị định 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP; Nghị định 64/2018/NĐ-CP ngày 07/05/2018 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Vậy, ranh giới nào để cơ quan thực thi nhiệm vụ áp dụng để xử phạt vi phạm hành chính mà không xử lý bằng pháp luật hình sự? Nếu không quy định rò, sẽ bị lạm dụng hoặc tùy tiện trong áp dụng.
Thứ ba, khoản 2, Điều 317 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định phải có hậu quả làm chết 1 người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 1 người với tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. Theo đó, mức phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 3 - 7 năm. Tuy nhiên, việc xác định tỉ lệ thương tổn ngay
khi sử dụng loại thực phẩm đó là chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực ATTP. Để chứng minh hậu quả này thật sự khó đối với các cơ quan điều tra, bởi phải chứng minh làm rò mối quan hệ nhân – quả giữa việc sử dụng thực phẩm do dùng hóa chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục tuy được phép sử dụng nhưng lạm dụng quá mức hoặc không rò nguồn gốc xuất xứ chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sức khỏe của người bị hại bị tổn thương theo tỉ lệ quy định. Bên cạnh đó, việc xác định hậu quả nghiêm trọng hầu như chỉ dựa vào việc có chết người, trong khi những chất cấm sử dụng trong chế biến thực phẩm không gây chết người ngay lập tức mà qua thời gian dài tích tụ trong cơ thể mới gây ra hậu quả.
Thứ tư, ranh giới nhận biết hành vi vi phạm hành chính với trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm quy định về ATTP không rò ràng. Theo Nghị định 115/2018/NĐ/CP ngày 4/9/2018 quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP, mà theo đó, mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về ATTP là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức. Chẳng hạn, tại Điều 6 của Nghị định này quy định hành vi vi phạm về sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, chế biến thực phẩm, mức phạt tiền thấp nhất 10 triệu đồng và cao nhất 100 triệu đồng, đối với các hành vi: Hành vi sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm nhưng quá thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng; sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng,hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam. Nhưng nghiên cứu quy định cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì chỉ cần người vi phạm thực hiện hành vi theo mô tả tại các điểm a, b, c, d là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà không phụ thuộc bất kỳ điều kiện nào. Do vậy, để tránh việc lạm dụng quy định của pháp luật hình sự trong đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này, sẽ tốt hơn, nếu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu hướng dẫn cụ thể nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và áp dụng có hiệu quả quy định trên.
Thứ năm, cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể thế nào là gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng. Chính vì thiếu những hướng dẫn nên các vi phạm về ATTP có dấu hiệu vi phạm trên phạm vi rộng như hiện nay, các cơ quan chức năng chỉ có thể xử phạt hành chính, mà không có cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy Điều 317 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 còn bộc lộ nhiều bất cập cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm quy định về ATTP hiện nay và trong thời gian tới.
Có thể bạn quan tâm!
- Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Phân Biệt Tội Vi Phạm Quy Định Về An Toàn Thực Phẩm Với Một Số Tội Khác
- Những Hạn Chế, Thiếu Sót Của Bộ Luật Hình Sự Năm 2015, Sửa Đổi Bổ Sung Năm 2017 Trong Quy Định Về Tội Vi Phạm Quy Định Về An Toàn Thực Phẩm
- Đặc Điểm Địa Bàn Và Tình Hình Tội Vi Phạm Quy Định Về An Toàn Thực Phẩm Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
- Thực Tiễn Quyết Định Hình Phạt Tội Vi Phạm Quy Định Về An Toàn Thực Phẩm Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
- Đánh Giá Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Về Tội Vi Phạm Quy Định Về An Toàn Thực Phẩm Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.
1.3. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong luật hình sự một số nước trên thế giới
1.3.1. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong BLHS Anh
Bộ luật Hình sự Anh không quy định về tội vi phạm quy định về ATTP, thay vào đó tại Điều 7, chương 13 của BLHS Anh quy định về tội lan truyền chất độc hoặc lan truyền dịch bệnh như sau:
“Người nào gây nguy hiểm đối với tính mạng và sức khỏe của người dân bằng việc đầu độc hoặc gây nhiễm độc thực phẩm, nguồn nước hoặc các đối tượng khác hoặc bằng việc lan truyền chất độc, truyền hoặc làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm thì bị phạt tù đến 6 tháng về tội lan truyền chất độc hoặc lan truyền dịch bệnh.
Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 4 năm đến 10 năm hoặc tù chung thân. Để xác định tính chất nghiêm trọng của tội phạm phải xem xét hành vi tội phạm đó được thực hiện có cố ý gây nguy hiểm cho tính mạng hoặc sức khỏe của người khác, hay có biểu hiện gây nguy hiểm cho nhiều người hay không.”
Mặt khách quan của tội phạm chính là hành vi đầu độc hoặc gây nhiễu độc thực phẩm, nguồn nước, các đối tượng tương tự khác và hành vi lan truyền chất độc, truyền hoặc làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm gây nguy hiểm đối với tính mạng và sức khỏe của người dân.
Hình phạt được áp dụng cho các hành vi tội phạm là hình phạt tù, gồm 2 khung: 1) phạt tù đến 6 tháng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành
cơ bản của tội phạm ở mặt khách quan; 2) phạt tù từ 4 năm đến 10 năm hoặc tù chung thân, áp dụng đối với hành vi phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng.
1.3.2. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm của Thái Lan
Thái Lan không quy định tội vi phạm quy định về ATTP trong Bộ luật Hình sự. Đạo luật thực phẩm 1979 của Thái Lan quy định các hành vi vi phạm quy định về ATTP tại một số điều trong chương II, chương III và chương IV, hình phạt áp dụng đối với các hành vi vi phạm này được quy định tại chương VIII từ Điều 47 đến 75. Các hành vi vi phạm và hình phạt áp dụng cụ thể như sau:
1) Hành vi vi phạm quy định về tỷ lệ của các thành phần được sử dụng trong sản xuất thực phẩm; vi phạm quy định về nguyên tắc, điều kiện và phương pháp bảo quản, phương pháp sử dụng chất bảo quản, phụ gia hoặc chất khác trong thực phẩm được sản xuất để bán ra thị trường hoặc để xuất khẩu thì bị phạt tiền không quá
20.000 bạt [Điều 47]
2) Hành vi vi phạm các quy định về phương pháp sản xuất, công cụ và dụng cụ sử dụng trong sản xuất và bảo quản thực phẩm thì bị phạt tiền không quá 10.000 bạt [Điều 49]
3) Hành vi vi phạm quy định về những thực phẩm bị cấm sản xuất, nhập khẩu hoặc bán ra thị trường thì có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm hoặc từ 5.000 đến 20.000 bạt [Điều 50]
4) Hành vi sản xuất thực phẩm để bán mà không có giấy phép bị phạt tù dưới 3 năm hoặc phạt tiền dưới 30.000 bạt hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt này [Điều 53]
5) Hành vi sản xuất thực phẩm không sạch, sản xuất đóng gói, tàng trữ thực phẩm không bảo đảm vệ sinh thì có thể phạt tù dưới 2 năm và bị phạt tiền từ 5.000 đến 20.000 bạt [Điều 58]
6) Hành vi sản xuất, nhập khẩu và phân phối các loại thực phẩm khác với thực phẩm đã được Bộ Y tế qu định thì bị phạt tù không quá 5 năm hoặc bị phạt tiền không quá 50.000 bạt hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt này [Điều 61]
7) Hình phạt được áp dụng đối với hành vi vi phạm quy định về ATTP trong Luật này là hình phạt tù hoặc hình phạt tiền hoặc cả hai hình phạt này.
1.3.3. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm theo quy định của BLHS Trung Quốc
BLHS Trung Quốc quy định loại tội phạm này thuộc nhóm các tội sản xuất và bán hàng giả, hàng kém chất lượng. Quy định cụ thể tại Điều 143 và Điều 144 Tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Cụ thể như sau:
“Điều 143: Người nào sản xuất, tiêu thụ thực phẩm không đủ tiêu chuẩn vệ sinh, đủ để gây ngộ độc thức ăn hoặc gây các bệnh nghiêm trọng có nguyên nhân từ thực phẩm thì bị phạt tù đến 3 năm và bị phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng; nếu gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm và có thể bị phạt tiền bổ sung từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng; phạm tội với tình tiết đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 7 năm trở lên hoặc tù chung thân và có thể bị phạt tiền từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng hoặc bị tịch thu tài sản.”
“Điều 144: Người nào sản xuất, tiêu thụ thực phẩm bị pha trộn các nguyên liệu chứa độc tố có hại cho sức khỏe con người hoặc tiêu thụ các sản phẩm biết rò là bị pha trộn các nguyên liệu chứa độc tố có hại cho sức khỏe con người thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động và bị phạt tiền bổ sung từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng; nếu gây sự cố ngộ độc thức ăn nghiêm trọng hoặc các bệnh nghiêm trọng đến sức khỏe con người, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm và bị phạt tiền bổ sung từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng; nếu gây chết người hoặc gây tổn hại đặc biệt nghiêm trọng đến sức khỏe con người, thì bị xử phạt theo quy định của Điều 141 của Bộ luật này.”
Hành vi vi phạm quy định về ATTP trong BLHS Trung Quốc bao gồm:
1) Hành vi sản xuất, tiêu thụ thực phẩm không đủ tiêu chuẩn vệ sinh, gây ngộ độc thức ăn hoặc gây các bệnh nghiêm trọng có nguyên nhân từ thực phẩm.
2) Hành vi sản xuất, tiêu thụ thực phẩm bị pha trộn các nguyên liệu chứa độc tố có hại cho sức khỏe con người.
3) Hành vi tiêu thụ các sản phẩm biết rò là bị pha trộn các nguyên liệu chứa độc tố có hại cho sức khỏe con người.
Hình phạt áp dụng cho tội phạm vi phạm quy định ATTP theo Bộ luật Hình sự Trung Quốc gồm hình phạt tù, cải tạo lao động và hình phạt tiền.
Điều 143: Khung hình phạt cơ bản là phạt tù đến 3 năm và bị phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng; [Điều 143]
- Khung hình phạt thứ 2 là phạt tù từ 3 năm đến 7 năm và có thể bị phạt tiền bổ sung từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng; [Điều 143]
- Khung hình phạt thứ 3 là phạt tù từ 7 năm trở lên hoặc tù chung thân và có thể bị phạt tiền từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng hoặc bị tịch thu tài sản. [Điều 143]
Điều 144: Khung hình phạt cơ bản là phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động và bị phạt tiền bổ sung từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng;
- Khung hình phạt thứ 2 là phạt tù từ 5 năm đến 10 năm và có thể bị phạt tiền bổ sung từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng;
- Khung hình phạt thứ 3 là phạt tù từ 10 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình và có thể bị phạt tiền từ ½ đến 2 lần số tiền bán hàng hoặc bị tịch thu tài sản.
Từ các quy định về tội vi phạm quy định về ATTP của Anh, Thái Lan và Trung Quốc dễ thấy có những điểm tương đồng: thứ nhất, quy định về các hành vi vi phạm quy định về ATTP (Anh quy định 2 hành vi, Thái Lan quy định 6 hành vi, Trung Quốc quy định 3 hành vi), thứ hai, quy định về xử phạt rất đầy đủ cho tất cả các vi phạm. Hình phạt có thể là tù giam và/hoặc phạt tiền. Anh có 2 khung hình phạt, Thái Lan và Trung Quốc đều có 6 khung hình phạt. Mức phạt tù giam có thể lên tới tù chung thân (Anh). Đặc biệt Thái Lan quy định nếu doanh nghiệp vi phạm thì người chịu trách nhiệm ở doanh nghiệp đó sẽ bị coi là phạm tội và kết án theo luật định. So sánh với quy định về tội vi phạm quy định về ATTP trong điều 317 BLHS năm 2015 của Việt Nam thì các quy định về tội vi phạm quy định về ATTP của Anh, Thái Lan và Trung Quốc không quy định chi tiết các hành vi vi phạm, mức độ nghiêm trọng gây tổn hại sức khỏe con người và khung hình phạt cho tất cả các hành vi vi phạm như Việt Nam. Tuy nhiên dễ nhận thấy quy định về khung hình
phạt của cả Anh, Thái Lan và Trung Quốc cao hơn Việt Nam, qua đó dễ phát huy tối đa hiệu quả trong răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội và trong việc xử lý vi phạm của cơ quan xét xử.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tác giả đã làm rò được các nội dung cơ bản sau:
Một là, xây dựng được khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP dựa trên các quy định của pháp luật, từ đó chỉ ra các dấu hiệu pháp luật của tội phạm này; phân biệt tội vi phạm quy định vê ATTP với một số tội khác.
Hai là, trình bày quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP trước khi ban hành BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho thấy lần đầu tiên hành vi vi phạm quy định về VSTP được pháp điển hóa trong BLHS năm 1985. BLHS năm 1999 quy định trực tiếp về tội vi phạm quy định về VSATTP (Điều 244). BLHS năm 2015 có nhiều điểm sửa đổi, bổ sung và quy định mới về tội vi phạm quy định về VSATTP tại điều 317. Đến này 20/6/2017, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 tiếp tục sửa đổi, bổ sung Điều 317 có nhiều điểm mới, tiến bộ, hợp lý, khắc phục được những hạn chế, bất cập của quy định trước đây.
Ba là, tác giả đã chỉ ra được 4 nhóm hạn chế, thiếu sót của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội vi phạm quy định về ATTP: 1) quy định người phạm tội phải biết rò thực phẩm mà học chế biến, cung cấp hoặc bán là chất cấm; 2) phi tội phạm hóa các hành vi sản xuất, nuôi trồng thực phẩm mà người vi phạm biết rò là không đảm bảo tiêu chuẩn ATTP; 3) quy định phải có hậu quả làm chế người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 1 người với tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; 4) chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Bốn là, dẫn chứng quy định luật hình sự một số nước: Anh, Thái Lan và Trung Quốc.
Những nội dung trên đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả tiếp cận đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM trong chương 2.