+ Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng lại chiếm đoạt sau khi đã thực hiện xong hành vi phạm tội khác, ví dụ:
22 giờ ngày 01/02/2009, anh Vũ Sơn Tùng (sinh năm 1988, trú tại Hoài Sơn, Tiên Du, Bắc Ninh) điều khiển xe máy trên đường Nguyễn Văn Linh (khu vực tổ 14, phường Phúc Đồng), bị chín đối tượng đi ba xe máy cùng chiều đuổi theo cúp đầu xe làm anh Tùng ngã bất tỉnh, rồi bỏ chạy, sau đó, hai đối tượng vòng lại lấy điện thoại di động của nạn nhân để trong túi quần. Công an phường Phúc Đồng đã xác minh làm rõ 9 đối tượng, gồm: Vương Đình Hưng (sinh năm 1991), Nguyễn An Ngọc (sinh năm 1989), Nguyễn Đình Phương (sinh năm 1988), Trần Hùng Tuấn (sinh năm 1991), Nguyễn Văn Hương (sinh năm 1987), Vương Đình Hiếu (sinh năm 1988), Hoàng Đức Sơn (sinh năm 1987), Hoàng Đức Tần (sinh năm 1984) và một đối tượng tên Trọng, cùng trú ở Phù Dực, Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội. Qua khai thác bước đầu các đối tượng khai nhận trong khi điều khiển xe máy tham gia giao thông trên đường thấy anh Tùng phóng nhanh nên đã đuổi theo để đánh. Hành vi lấy trộm chiếc điện thoại di động trong điều kiện anh Tùng đang bị bất tỉnh đủ yếu tố cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chứ không phải là tội cướp tài sản.
Trong trường hợp này, khi thực hiện hành vi tấn công "đi ba xe máy cùng chiều đuổi theo cúp đầu xe làm anh Tùng ngã bất tỉnh", người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước mà vì động cơ, mục đích khác, sau khi thực hiện xong hành vi tấn công, lợi dụng chủ tài sản ở vào những hoàn cảnh đăc biệt, người phạm tội đã thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, như vậy, ý định chiếm đoạt nảy sinh sau hành vi dùng vũ lực, hành vi tấn công. Ở đây, hành vi dùng vũ lực của các bị cáo không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công. Việc hai đối tượng lấy điện thoại di động là do lợi dụng lúc anh Tùng bất tỉnh, không có khả năng ngăn cản hành vi lấy điện thoại.
b) Hậu quả
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, nói cách khác, thiệt hại về tài sản là thước đo để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản bị thiệt hại là căn cứ để phân biệt một hành vi là tội phạm hay vi phạm pháp luật, nếu chưa đến mức quy định của Bộ luật hình sự thì chưa bị coi là tội phạm. Như vậy, hậu quả của tội phạm là yếu tố quan trọng cần phải xác định trong trường hợp xác định một hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay không, nói cách khác, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm, chỉ khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội nảy sinh thì mới phản ánh đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Mặc dù khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ hai triệu đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng phải có thiệt hại về tài sản (người phạm tội chiếm đoạt được tài sản) thì mới cấu thành tội phạm. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ hai triệu đồng là để áp dụng trong những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị không lớn, đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt những tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ô tô, xe máy hoặc tài sản có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên, đó là trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Ở đây, cần phải
phân biệt về tội phạm hoàn thành và đủ yếu tố cấu thành tội phạm, việc người phạm tội chiếm đoạt được tài sản chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa, nghĩa là xác định các giai đoạn thực hiện hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được.
c) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả
Nếu hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là yếu tố thứ hai thì nội dung biểu hiện thứ ba của mặt khách quan của tội phạm chính là mối quan hệ nhân quả của hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả luôn tồn tại và là sợi dây liên hệ giữa hành vi và hậu quả của hành vi phạm tội, trong luật hình sự mối quan hệ nhân quả cũng được coi là mặt khách quan của tội phạm. Con người chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu hậu quả đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm đó có quan hệ nhân quả với nhau.
Mối quan hệ nhân quả là một tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Khi nói đến quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cần xác định hành vi là nguyên nhân gây ra hậu quả còn hậu quả là kết quả tất yếu của hành vi. Nhưng không phải hậu quả nào xảy ra cũng là kết quả hành vi. Trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản phải là kết quả tất yếu dẫn đến hậu quả là gây ra thiệt hại cho khách thể.
Có thể bạn quan tâm!
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam - 2
- Lịch Sử Lập Pháp Của Tội Công Nhiên Chiếm Đoạt Tài Sản
- Mặt Khách Quan Của Tội Công Nhiên Chiếm Đoạt Tài Sản
- Đường Lối Xử Lý Tội Công Nhiên Chiếm Đoạt Tài Sản Theo Luật Hình Sự Việt Nam
- Các Tình Tiết Tăng Nặng Định Khung Hình Phạt
- Phân Biệt Tội Công Nhiên Chiếm Đoạt Tài Sản Với Một Số Tội Phạm Theo Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Năm 1999
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Như vậy, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, nghĩa là trong mặt khách quan của tội phạm phải xác định và làm rõ
được các yếu tố như hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quản giữa hành vi và hậu quả.
1.2.3. Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Tội phạm được thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi của con người, do đó, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng không phải bất kỳ ai đều trở thành tội phạm, chỉ những người thực hiện hành vi phạm tội mà nhận thức được và điều khiển hành vi đó và họ phải nhận thức được lỗi của mình mới là chủ thể của tội phạm. Một người thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không có lỗi thì không phải là chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể 39, tr. 90;
Là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể còn phải có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định) 5, tr. 343-344.
Như vậy, về mặt lý luận, điều kiện quan trọng để xác định một người có phải là chủ thể của tội phạm hay không thì phải xem xem người đó có năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay không, họ có ở vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không?. Theo luật hình sự nước ta, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, một người bị coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi "đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình". Do vậy, có thể khẳng định rằng chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là một thể nhân xác định không bị mắc bệnh tâm thần hoặc một số bệnh làm mất khả năng nhận
thức, và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Với cách tiếp cận đó, có thể hiểu chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là con người cụ thể, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định, đã thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản có lỗi một cách cố ý.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, theo Điều 12 Bộ luật hình sự thì: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng".
Quy định về độ tuổi của người phạm tội xuất phát từ cơ sở cho rằng người trong độ tuổi năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ luôn luôn có thể nhận thức được tính chất xã hội của một số hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định. Và hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản là một trong những hành vi mang tính nguy hiểm cao cho xã hội. Một người chưa thành niên thực hiện những hành vi trên họ đều nhận thức được việc làm đó sẽ xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả năng kiểm soát đối với tài sản cũng như thực hiện các quyền đối với tài sản. Do đó tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm này có thể đặt ra đối với người chưa thành niên phạm tội. Nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự, trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với người chưa thành niên phạm tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng, vấn đề cần xem xét là tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có phải là tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng hay không để có thể khẳng định người chưa thành niên phạm tội cụ thể là từ 14 đến 16 tuổi có là chủ thể của tội này không.
Theo Điều 8 Bộ luật hình sự quy định "Tội rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình". Như vậy,
theo quy định của Bộ luật hình sự và đối chiếu với khung hình phạt được quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự thì người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự vì khoản 1 Điều 137 là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 137 là tội phạm nghiêm trọng mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Xuất phát từ nguyên tắc lãnh thổ, chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường và rất đa dạng. Theo đó, bất kỳ ai nếu nào thoả mãn đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với khung hình phạt và thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thì đều là chủ thể của tội phạm này. Chủ thể của tội này có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, hoặc người không quốc tịch. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, người nước ngoài là người mang quốc tịch nước khác và người không mang quốc tịch nhưng thường trú tại Việt Nam, những người này phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trên lãnh thổ Việt Nam thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này theo pháp luật Việt Nam.
Có một điểm cần lưu ý khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể của tội phạm là người nước ngoài, đó là theo Khoản 2 Điều 5 Bộ luật hình sự đã quy định: "Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao", do đó chủ thể của tội này là người nước ngoài thì chủ thể này phải không thuộc trường hợp miễn trừ ngoại giao.
Ngoài ra khi xem xét chủ thể của tội phạm này cũng cần phải chú ý tới nhân thân của kẻ phạm tội đó là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ, đó là các yếu tố như nghề nghiệp, tuổi, giới tính, trình độ văn hoá, nhận thức chính trị... Qua việc nghiên cứu nhân thân của người phạm tội các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử có thể làm sáng tỏ một số tình tiết về các yếu tố cấu thành tội phạm như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội
1.2.4. Mặt chủ quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan hệ mật thiết với nhau, luôn gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn được thể hiện thông qua những biều hiện bên ngoài của tội phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải thông qua một quá trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng.
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi)" 5, tr. 344. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm nhiều yếu tố hợp thành nhưng chủ yếu nhất là các yếu tố: lỗi, động cơ, và mục đích phạm tội.
Lỗi là nội dung biểu hiện của mặt chủ quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý 39, tr. 101. Lỗi luôn bao gồm hai yếu tố là lý trí và ý chí, lý trí chính là năng lực nhận thức thực tại khách quan
còn về ý chí chính là năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức, yếu tố lỗi chỉ được đặt ra khi việc gây thiệt hại cho xã hội đã được thực hiện là kết quả của sự tự lựa chọn và tự quyết định của chủ thể, trong khi chủ thể có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định xử sự khác cho phù hợp. Trong mỗi cấu thành tội phạm cơ bản, dấu hiệu lỗi chỉ có thể là lỗi cố ý (gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (gồm lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin và lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả).
Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Theo Điều 10 Bộ luật hình sự, lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hại đó. Lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước (hậu quả này).
Trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản. 1) Về mặt lý trí: người phạm tội nhận thức rõ về hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của mình là nguy hiểm cho xã hội (nhận thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi đang thực hiện trên cơ sở những tình tiết khách quan), thấy trước hậu quả của hành vi đó (người phạm tội dự kiến