Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ở Việt Nam - 25



thương mại và các kết quả phân tích có tính định lượng, thực hiện lập dự án quản lý chi tiêu của Ngân hàng Nhà nước thông qua việc sử dụng thẻ thương mại. Đề xuất phương án thực hiện trên cơ sở thoả thuận với ngân hàng đối tác về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ phục vụ cho giải pháp, sau một thời gian nhất định (quý hoặc năm) cần tổng kết đánh giá rút bài học kinh nghiệm cả kết quả và nhược điểm, trên cơ sở đó trình Chính phủ ra Chỉ thị chính thức triển khai đến các bộ ngành khác với diện thực hiện ngày càng rộng hơn.

- Mở rộng đối tượng thực hiện, bao gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, Sở, Ban ngành địa phương lớn… với sự tham gia của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

- Phấn đấu trong 2 - 3 năm thì tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cấp chính quyền tỉnh, thành phố đều thực hiện chi tiêu công bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Từ đấy, tiếp tục triển khai mở rộng đến các đối tượng là Sở, Ban, ngành, các cấp chính quyền huyện,xã trên phạm vi toàn quốc. Việc quản lý thanh toán không dùng tiền mặt đối với khu vực công phải được nghiêm minh, chặt chẽ như thời kỳ thực hiện theo nghị định 15/CP và 75/CP mới gọi là đưa lại hiệu quả.

Hai là: Trong khu vực doanh nghiệp, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp:

Ngân hàng Nhà nước ban hành cơ chế sử dụng tiền mặt và xem xét cho áp dụng thu phí đối với việc nộp và rút tiền mặt với giá trị lớn; quy định việc thanh toán giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp phải thực hiện qua ngân hàng; tăng cường giải ngân cho vay bằng các phương tiện TTKDTM, giải quyết tích cực diễn ra trong thực tế hiện nay, đó là:

- Giao dịch TTKDTM trong khu vực doanh nghiệp còn chưa được quy định và quản lý chặt chẽ. Kỷ luật thanh toán chưa được thực hiện nghiêm túc, nhất là kiểm soát giải ngân trong đầu tư tín dụng. Quy định đối với giao dịch chuyển tiền và giải ngân khi cho vay phải chuyển khoản chưa cụ thể đối với một số đối tượng. Trong giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp, cũng còn một bộ phận sử dụng tiền mặt, nhất là trong khu khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Qua theo dõi công tác cho vay đối với khu vực này cho thấy việc rút, sử dụng và trả nợ của người vay



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 262 trang tài liệu này.

bằng tiền mặt còn khá lớn. Đối với các hợp tác xã, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, chủ trang trại, tỷ trọng sử dụng tiền mặt còn lớn hơn.

- Việc giải ngân bằng tiền mặt là do thói quen sử dụng tiền mặt của cá nhân, hộ sản xuất – kinh doanh; tâm lý khách hàng vay có nhu cầu được giải ngân bằng tiền mặt để linh hoạt trong việc sử dụng vay; những khó khăn, vướng mắc, chậm trễ phát sinh khi chuyển tiền, giải ngân bằng chuyển khoản, tạo tâm lý cho bên bán hàng có nhu cầu được nhận tiền mặt hơn nhận tiền bằng chuyển khoản; và việc giải ngân vốn cho vay bằng tiền mặt hiện quy định không thu phí, còn khi khách hàng chuyển tiền vay cho khách hàng qua việc sử dụng dịch vụ thanh toán thì được thu phí, cũng gây tâm lý cho khách vay có nhu cầu giải ngân vốn vay bằng tiền mặt.

Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ở Việt Nam - 25

- Nhận thức của các doanh nghiệp đối với các phương tiện thanh toán mới vẫn còn hạn chế: Chỉ chấp nhận thanh toán khi đã giao hàng, vì mức độ kinh doanh thương mại điện tử chưa cao; chủ doanh nghiệp không muốn minh bạch hóa doanh thu, nhân viên thu ngân ngại tiếp cận công nghệ mới; số doanh nghiệp có khả năng chấp nhận thanh toán các đơn hàng trực tuyến chưa nhiều.

Hoạt động kinh doanh là mảnh đất chủ yếu phát triển dịch vụ thanh toán mang lại thu nhập tài chính lớn nhất cho các NHTM. Toàn bộ sự đổi mới và nâng cao năng lực thanh toán của NHTM tập trung cho khối kinh doanh này. Mặc dù hoạt động thanh toán của NHTM từ trước đến nay đã gắn với hoạt động kinh doanh, nhưng để đáp ứng yêu cầu mới của thanh toán không dùng tiền mặt cần lưu ý làm tốt những mặt sau đây:

- Trang bị kiến thức, thông tin cho doanh nghiêp về những đặc điểm, tiện ích, rủi ro của từng loại phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán, trên cơ sở đó các doanh nghiệp lựa chọn các đối tượng, phạm vi và chủng loại của sản phẩm dịch vụ thanh toán phù hợp với nhu cầu của mình. Ngân hàng và các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tạo thuận lợi trong vịêc mở tài khoản, tạo ra sự gắn kết giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với các chủ thể kinh doanh trong việc cung cấp dịch vụ trọn gói, phát triển các loại hình thanh toán điện tử

- Yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi, đối tượng nhất định, có chính sách cụ thể đối với chủ thể kinh doanh để khuyến khích thanh toán qua ngân hàng (điện, nước, viễn thông,…)



- Tập trung phát triển dịch vụ thanh toán điện tử, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử.

- Tổng hợp việc nghiên cứu xác định nhu cầu và khả năng thanh toán không dùng tiền mặt của các doanh nghiêp, trước mắt tập trung vào các tập đoàn và các Tổng công ty lớn và tiến hành trên 3 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề ra biện pháp thích hợp.

- Nghiên cứu để ban hành quy định về việc các giao dịch thanh toán giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp phải thực hiện qua ngân hàng trên phạm vi toàn quốc, hầu hết các trung tâm thương mại, các cửa hàng lớn ở thành thị đều phải có thiết bị chấp nhận thẻ, phát triển thanh toán điện tử phù hợp với kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành.

Ba là: Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt đối với khu vực dân cư

Với trọng tâm là phát triển hệ thống POS, tại các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng và các giao dịch thanh toán định kỳ qua tài khoản như điện, nước, dịch vụ công cộng,... Để việc sử dụng thẻ thanh toán qua POS thực sự đi vào cuộc sống, trở nên hấp dẫn và có lợi đối với cả người mua hàng và người bán hàng, cần áp dụng một số biện pháp đồng bộ, trên cơ sở đó, có thể mở rộng dần phạm vi và đối tượng sử dụng thẻ thanh toán qua POS trong tương lai:

- Tiếp tục phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, mở rộng phạm vi sử dụng thẻ, đa dạng hóa tiện ích và nâng cao chất lượng các dịch vụ thẻ, tập trung phát triển mạng lưới chấp nhận thẻ hoạt động một cách hiệu quả, thực chất, trước hết tại các siêu thị, trung tâm thương mại, các cơ sở phân phối hiện đại, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, du lịch,...

- Các công ty chuyển mạch thẻ, các NHTM nghiên cứu xây dựng kế hoạch đẩy mạnh kết nối liên thông hệ thống POS, trước mắt trên địa bàn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, sau đó mở rộng trên toàn quốc để tạo thuận lợi cho khách hàng sử dụng thẻ khi thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt là khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng;

- Ngân hàng Nhà nước có quy định về phát triển các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): khuyến khích ngân hàng mở rộng mạng lưới ĐVCNT, có định hướng và chính sách khuyến khích phù hợp (như ưu đãi về thuế) cho các ĐVCNT, khắc phục chạy đua về mức phí chiết khấu.



a) Về việc trả lương qua tài khoản

Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị trả lương cho cán bộ, công chức qua tài khoản: Việc này đã được thực hiện từ cuối năm 2007, nội dung chủ yếu là:

* Yêu cầu trả lương vào tài khoản đối với các cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy nhà nước; khuyến khích người lao động trong các doanh nghiệp nhận lương và chi tiêu qua tài khoản.

* Trước mắt, đối tượng triển khai, giới hạn ở một số cơ quan Trung ương như Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp lớn khác, các khu chế xuất, khu công nghiệp sử dụng nhiều lao động; một số chính quyền địa phương như Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, một số Sở, Ban, ngành có điều kiện như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà Nẵng,…

Ở giai đoạn này, điều quan trọng là thực hiện thật tốt giữa NHNN với các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố lên kế hoạch, bước đi, nhưng nhất thiết phải phối hợp với các NHTM nghiên cứu và xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chính, có khả năng để triển khai

Sau khoảng một hai năm cần tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm và sau đó triển khai mở rộng.

* Mở rộng tới các đối tượng chưa triển khai giai đoạn này trên phạm vi các tỉnh, thành phố trong toàn quốc (giới hạn ở mức thị xã trở lên) với sự tham gia của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

* Phấn đấu đến cuối năm 2011 tất cả các cơ quan, đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước và 70% các loại hình doanh nghiệp tại các thành phố, tỉnh ( từ cấp thị xã trở lên) đều sử dụng dịch vụ ngân hàng để trả lương cho cán bộ, nhân viên.

b) Về việc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản thực hiện từ năm 2007, về đối tượng này chỉ nên vận động những người có mức thu nhập từ 3 triệu đồng trở lên.

Đưa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ thanh toán đến các đối tượng có trình độ thấp, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thông qua việc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản, cụ thể:



+ Tạo thuận lợi nhất cho đối tượng khi rút tiền, chuyển tiền, thanh toán các dịch vụ (điện thoại, điện nước,…) và mua sắm hàng hoá. Trong trường hợp đối tượng này già yếu, đi lại khó khăn thì đơn vị thực hiện dịch vụ này có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt tại nhà cho đối tượng. Đáng lưu ý là hiện nay cần làm việc với những đơn vị, các ngành như điện, nước, bưu điện triển khai ngay việc khuyến khích trả dịch vụ bằng chuyển khoản

+ Không thu bất kỳ khoản tiền nào của đối tượng khi thực hiện phương thức chi trả này.

+ Đảm bảo các thủ tục quyết toán chi trả theo quy định;

+ Cần có lộ trình thực hiện chương trình này

+ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội một số tỉnh, thành phố nghiên cứu, xây dựng ban hành thí điểm cơ chế chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản.

+ Lựa chọn tổ chức thực hiện dịch vụ thanh toán đáp ứng đầy đủ, tốt nhất các mục tiêu, yêu cầu của việc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội qua tài khoản

+ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng và những thành phố lớn khác…để triển khai thực hiện trước một thời gian để rút kinh nghiệm .

+ Tổ chức tập huấn cơ chế thí điểm cho cán bộ chuyên môn của các cơ quan có liên quan và đối tượng của các địa phương thực hiện bước đầu và chuẩn bị cho các bước sau.

Đây là mảng thanh toán thuộc đối tượng hưởng trợ cấp xã hội một lĩnh vực dễ nhạy cảm cần được quan tâm thoả đáng vì: nếu nhìn về mặt bằng thu nhập thì đây là những đối tượng thu nhập thấp, nhiều khó khăn, nhất là diện hưởng lương trợ cấp chính sách xã hội thường rơi vào gia cảnh neo đơn. Ngay trong cùng đối tượng này thì cũng có nhiều người thu nhập chênh lệch lớn như những người nghỉ chế độ hưu trí thuộc lực lượng vũ trang có mức thu nhập cao hơn cán bộ dân sự, thu nhập của viên chức cao hơn thu nhập của công nhân về hưu…Nghĩa là, có người thu nhập 4-5 triệu đồng trong khi đó có nhiều người chỉ hưởng trợ cấp trên dưới 1triệu đồng, thậm chí thấp hơn (thương binh, người về hưu trước tuổi…), nhiều người



chưa hết tháng đã tiêu hết tiền lĩnh trợ cấp. Điều đó với tình hình giá cả hiện nay càng dễ hiểu.

3.2.4 Những giải pháp chung

3.2.4.1 Phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt hiện đại theo hướng: tăng số lượng, chất lượng và chủng loại của các sản phẩm dịch vụ thanh toán với độ tin cậy cao và với giá cả phù hợp; nghiên cứu và tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, phù hợp với sự phát triển công nghệ thông tin; xây dựng quy trình nghiệp vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thanh toán; ứng dụng các phần mềm trong nước có tính mở và dễ sử dụng; tạo lập và phát triển các chuẩn mực chung phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cải thiện các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt truyền thống như Séc, lệnh chi, nhờ thu theo hướng thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đơn giản hoá thủ tục sử dụng, bảo đảm tính an toàn và bảo mật trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại trong khâu xử lý giao dịch;

Thực hiện các biện pháp để tăng tính an toàn và bảo mật trong việc sử dụng các phương tiện thanh toán, đặc biệt là các phương tiện thanh toán điện tử hiện đại như thẻ thanh toán, như yêu cầu áp dụng các chuẩn mực kỹ thuật có độ an toàn cao đối với các nhà cung ứng dịch vụ thanh toán, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan theo hướng rõ ràng, minh bạch về quyền và trách nhiệm của các bên, đề xuất xây dựng các tổ chức chuyên trách tập hợp và cung cấp thông tin liên quan đến các phương tiện thanh toán bị mất cắp, bị gian lận…; tăng cường vài trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các phương tiện thanh toán và hệ thống thanh toán.

Tạo lập được sự hiểu biết và cung cấp thông tin cơ bản và đầy đủ về những lợi ích, chi phí cũng như rủi ro gắn với mỗi loại phương tiện hoặc dịch vụ thanh toán nào đó, theo đó khách hàng tự do tiếp cận và lựa chọn sản phẩm dịch vụ và phương tiện thanh toán phù hợp với nhu cầu của mình.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng máy móc thiết bị phục vụ cho các giao dịch thanh toán hiện đại, tập trung chủ yếu cho dịch vụ thẻ và tạo điều kiện phát triển thanh



toán qua internet, mobile. Tiếp cận nhanh chóng với công nghệ hiện đại trên thế giới theo cách thức “đi tắt, đón đầu”. Trong quá trình đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại cần gắn với công nghệ, chuẩn mực và các quy định có tính nguyên tắc phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Gia tăng các tiện ích đi kèm dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại, dần thay thế dịch vụ đơn mục đích bằng những dịch vụ đa mục đích (như sử dụng thẻ cho nhiều mục đích như thanh toán, chi trả hoá đơn định kỳ, vấn tin, rút tiền mặt… thay cho việc sử dụng thẻ chỉ để rút tiền mặt).

3.2.4.2 Phát triển mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt

- Tăng cường việc chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong thanh toán của các tổ chức, cá nhân bằng việc tăng cường mạng lưới chấp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt theo tiến trình phát triển của hệ thống thương mại dịch vụ để hỗ trợ các giao dịch thanh toán mặt đối mặt, cũng như giao dịch thanh toán từ xa trong thương mại điện tử phục vụ cho các giao dịch thanh toán mua hàng hoá, dịch vụ không mang tính định kỳ tại khách sạn, nhà hàng, siêu thị,… Phát triển mạng lưới chấp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tại điểm bán: Tập trung phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCN) ở hệ thống phân phối hàng hoá bán lẻ hiện đại (bao gồm các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn.v.v…), ngành dịch vụ khách sạn, nhà hàng, hàng không. Cố gắng để đến năm 2012, có 70% trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn và 60% nhà hàng, khách sạn lớn tại các tỉnh, thành phố trọng điểm sẽ trở thành ĐVCN thẻ và các phương tiện thanh toán hiện đại và cần nhanh chóng triển khai mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Đưa ra mục tiêu này vì giai đoạn hội nhập của Việt Nam đòi hỏi.

- Phát triển các thoả thuận thanh toán cho các giao dịch thanh toán định kỳ qua tài khoản như thanh toán tiền điện, nước, phí dịch vụ công cộng, bảo hiểm,… Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tiếp cận trực tiếp tới các cơ quan chủ quản các ngành nêu trên để phát triển thanh toán bằng uỷ nhiệm thu.


3.2.4.3 Giải pháp về tổ chức bộ máy

Để mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán cần phát huy vai trò dẫn đầu của NHNN, nhất là về năng lực điều phối, phát triển, quản lý vĩ mô trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến tổ chức thanh toán của Ngành Ngân hàng Việt Nam. Đồng thời, cần thực hiện một số chính sách hỗ trợ phát triển đối với các tổ chức tín dụng về tài chính, công nghệ, giải pháp quản lý, đặc biệt là các chính sách khuyến khích phát triển, đảm bảơ quyền tự chủ, khả năng sáng tạo của các tổ chức tín dụng.

Hoàn thiện cơ sở pháp lý tổ chức thanh toán qua ngân hàng đang đặt ra yêu cầu phải có luật điều chỉnh vĩ mô về sử dụng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời phải hoàn thiện, phát triển rất nhiều quy định về quan hệ giao dịch giữa NHTM với khách hàng và giữa NHNN với các tổ chức tín dụng cũng như trong các hoạt đông nội tại của ngân hàng. Một yêu cầu thời sự phải được đáp ứng là hoàn thiện, phát triển cơ sở pháp lý cho các ứng dụng và phát triển thanh toán điện tử theo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam.

Những khối lượng công việc quá lớn đó cần có sự điều chỉnh, nâng cấp bộ máy tổ chức hoạt động thanh toán cụ thể là:

- Vụ Thanh toán phải có lực lượng đủ mạnh để quản lý và điều hành hoạt

động thông suốt toàn hệ thống.

- Các nhà lãnh đạo phụ trách thanh toán NHTW cần có tầm nhìn chiến lược để dự đoán được xu hướng vận động của thị trường, từ đó có kế hoạch ứng dụng CNTT vào hoạt động ngân hàng nhằm nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh.

- Việc tổ chức bộ máy lao động của các TCCƯDVTT cần phải tổ chức, sắp xếp các nghiệp vụ hoạt động và quy trình xử lý các nghiệp vụ của Ngân hàng phải phù hợp với việc ứng dụng CNTT trong Ngân hàng như kế toán, quản lý thanh khoản, tổ chức hoạt động thanh toán, quản lý tài sản nợ - tài sản có…

- Ở Ngân hàng Nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc cũng cần có ngay một phòng thanh toán để làm trung tâm quản lý khu vực, tạo sự thông suốt nhất quán quản lý hoạt động thanh toán.

- Rà soát toàn bộ mạng lưới tổ chức bộ máy hoạt động thanh toán tại các tổ chức tín dụng nhằm có giải pháp hoàn thiện bộ máy thanh toán nội bộ và kết nối hoạt động thanh toán với NHTW và các TCTD khác.

Xem tất cả 262 trang.

Ngày đăng: 13/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí