Thực Hiện Đầy Đủ Các Quy Định Của Nhà Nước Và Của


Ba, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ để nâng cao chất lượng của công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Theo đó cần thực hiện các bước công việc sau:

­ Bộ phận kiểm tra, kiểm soát chuyên trách thực hiện chức năng

kiểm tra, kiểm toán định kỳ theo chương trình, kế hoạch hàng tháng, quý, năm. Đảm bảo ít nhất trong năm mỗi ngân hàng cơ sở phải được kiểm tra 1 lần về công tác tín dụng, ngoài những đợt kiểm tra đột xuất hay kiểm tra vụ việc.

­ Bộ phận kiểm tra chuyên đề của phòng tín dụng, hàng tháng đều

phải kiểm tra lại việc làm của cán bộ mình một cách thường xuyên, liên

tục. Kết quả kiểm tra hàng tháng, quý gửi cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán chuyên trách tổng hợp báo cáo với lãnh đạo chi nhánh.

­ Xử lý những vướng mắc, tồn tại qua quá trình kiểm tra, kiểm soát. Những phát hiện đúng sai đều phải có kết luận xác đáng và phải được xử lý kịp thời nhằm ổn định hoạt động, không để kéo dài sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của cán bộ nhân viên và ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân.

­ Tăng cường công tác giám sát khách hàng:

+ Cán bộ tín dụng phải tuân thủ đầy đủ quy định của ngân hàng về quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, nhất là các khoản vay dễ xảy ra rủi ro. Đặc biệt là giám sát hoạt động của khách hàng sau khi cho vay, yêu cầu khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích như phương án, dự án đã được ngân hàng thẩm định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.

+ Ngân hàng cử cán bộ theo dõi, giám sát chặt chẽ các nguồn thu từ đầu tư mang lại cho hộ sản xuất để đảm đảm bảo thu hồi nợ đúng thời

hạn cho vay. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải theo dõi sát sao việc thực

Tín dụng đối với kinh tế hộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam - 16

hiện các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng với khách hàng, kịp thời phát hiện những vi phạm để có những biện pháp xử lý phù hợp.


+ Thường xuyên giữ mối liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng để nắm tình hình, tìm hiểu việc sử dụng vốn vay, kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời hướng dẫn, tư vấn khách hàng thực hiện đúng các quy định của ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay cũng như đôn đốc thu hồi nợ khi đến hạn.

3.2.2.3 Thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước và của

ngành ngân hàng về tín dụng đối với kinh tế hộ; giảm thiểu rủi ro tín dụng

Tín dụng đối với kinh tế hộ cho dù được hưởng những ưu đãi của

Nhà nước và của ngân hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển, trước hết là xóa đói, giảm nghèo cho nông dân. Nhưng điều đó

không có nghĩa, hoạt động tín dụng không tuân thủ những nguyên tắc,

những quy định có tính pháp lý của Nhà nước và của ngành ngân hàng. Ngược lại, hoạt động tín dụng càng được mở rộng với nhiều đối tượng thì cần phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của Nhà nước và của ngành ngân hàng nhằm:

­ Đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi vào nề nếp, đúng luật, đúng chính sách, chế độ, đồng thời đảm bảo lợi ích của người cho vay và người đi vay; thực hiện bình đẳng trong kinh doanh, không vì lợi nhuận mà làm trái các quy định của Nhà nước và của ngân hàng, làm phương hại đến lợi ích của xã hội, gây khó khăn cho kinh tế hộ trong việc vay vốn sản xuất. Đối với kinh tế hộ cũng vậy, không vì sự quan tâm của Đảng và Nhà nước mà có những đòi hỏi quá đáng về những ưu đãi trong vay vốn, ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.

­ Đảm bảo cho hoạt động tín dụng được lành mạnh, an toàn, hiệu

quả.


Việc thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước và của ngân hàng về tín dụng đối với kinh tế hộ sẽ khắc phục được tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất trong cho vay tín dụng dẫn đến những bất lợi cho ngân hàng và cho cả kinh tế hộ, nhất là khi sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, mất mùa làm ăn thua lỗ. Do đó, đòi hỏi hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước và của ngành ngân hàng thì mới tránh được những thiệt hại trong kinh doanh, mới làm cho hoạt động

tín dụng đi đúng quỹ đạo, phát triển lành mạnh, an toàn và có hiệu quả,

thật sự thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển. Đó cũng là đòi hỏi của hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

­ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tín dụng đối với kinh tế hộ; giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một đòi hỏi khách quan

của mọi hoạt động kinh tế. Riêng trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy sản xuất phát triển, làm thay đổi cuộc sống người nông dân, xóa đói, giảm nghèo. Xét về một góc

độ nào đó, nâng cao hiệu quả

sử dụng vốn đầu tư

cũng đồng nghĩa với

việc giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, bởi nếu để xảy ra thì không thể

nói kinh doanh có hiệu quả được. Đương nhiên, có những nhân tố ảnh

hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro không hoàn toàn giống nhau. Do đó, trong sản xuất, kinh doanh nói chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng đòi hỏi phải biết lợi dụng các nhân tố thuận lợi, tác động tích cực đến sản xuất để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời giảm thiểu rủi ro. Thực ra, rủi ro trong kinh doanh là điều không ai muốn, nhưng nó vẫn diễn ra theo quy luật kinh tế thị trường. Điều quan trọng là phải biết điều chỉnh các hoạt động một cách hợp lý và có


những giải pháp tích cực trong sử dụng vốn vay thì sẽ giảm thiểu được rủi ro. Cụ thể:

+ Làm tốt công tác phân loại khách hàng.

Trong hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ, chất lượng phân loại khách hàng có tác động đến chất lượng quản lý tín dụng, đảm bảo cho việc xác lập chính sách tín dụng một cách đúng đắn, hạn chế những thất thoát, rủi ro trong cho vay do chủ quan hoặc do thiếu hiểu biết thông tin về khách hàng.

+ Nâng cao chất lượng hoạt động, phòng chống rủi ro trong cho vay đối với kinh tế hộ.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

ở nước ta hiện nay chịu tác động bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan

ở trong và ngoài nước, ngay trên địa bàn huyện thì sự tác động đó cũng

không nhỏ, gây không ít khó khăn cho sản xuất. Do đó, việc thực hiện chặt chẽ các quy trình cho vay tín dụng được coi là một trong những giải pháp

khả thi nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng của

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Điều đó đòi hỏi một mặt, phải nắm chắc các thông tin có liên quan đến khách hàng, như năng lực tài chính, tư cách pháp nhân, uy tín trong kinh doanh ... Mặt khác, thực hiện tốt các quy định về hoạt động tín dụng, nhất là việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ cho vay và công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Đây là những vấn đề có tính nghiệp vụ, nhưng nếu không được quan tâm đúng mức thì nó sẽ ảnh

hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế

­ xã hội của địa phương và

ảnh

hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.


3.2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà

nước, sự

phối hợp chặt chẽ

của các ban, ngành, địa phương, các tổ

chức chính trị ­ xã hội trong hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ

­ Tín dụng đối với kinh tế hộ không chỉ là một hoạt động đơn thuần của ngân hàng trong kinh doanh tiền tệ là cho vay lấy lãi, mà quan trọng hơn là nó góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm làm cho mọi người có cuộc sống no đủ, giàu có như mục tiêu của Đảng đề ra là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và chủ trương đó có đi vào cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân, có thực sự thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển hay không, có xóa được đói, giảm được nghèo, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo hay không, một phần rất quan trọng phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Cấp ủy Đảng và chính quyền không chỉ thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của mình một cách sâu sát, cụ thể, tránh tình trạng quản lý chung chung, trách nhiệm không rõ ràng, mà còn phải có chủ trương, kế hoạch, nghị quyết sát đúng cùng những giải pháp cụ thể về hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ ở từng địa bàn, từng cơ sở.

Vì vậy, trong nghị quyết của cấp ủy, trong kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội của chính quyền trong từng thời kỳ nhất định (1 năm, 5 năm ...) phải đề ra được những chỉ tiêu, giải pháp cụ thể về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, về xóa đói, giảm nghèo thông qua hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ. Đồng thời có sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cụ thể việc thực hiện, kịp thời kiến nghị với ngành ngân hàng uốn nắn, khắc

phục những hạn chế

vướng mắc trong kinh doanh, tạo sự

an tâm, phấn

khởi, tin tưởng của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước về lãnh đạo, chỉ đạo


phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực tiễn đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước một cách trực tiếp, thường xuyên đối với hoạt động tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng điều chỉnh các hoạt động của mình đi đúng quỹ đạo, mục tiêu, không chệch hướng. Ngược lại, nơi nào thiếu sự quan tâm đó thì hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ sẽ gặp khó khăn, vì thiếu sự hỗ trợ, giúp

đỡ, sự

quan tâm của địa phương, cơ sở

trong tổ

chức thực hiện, nhất là

việc vận động nhân dân vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo.

­ Cùng với đó cần tăng cường sự phối hợp của các ban ngành, địa

phương các tổ chức chính trị ­ xã hội trong hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ.

Phát triển nông nghiệp, nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, do đó phải có sự hoạt

động đồng bộ, sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các ban,

ngành, địa phương, các tổ chức chính trị ­ xã hội thì mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện các dự án, chương trình lớn, những vấn đề

phức tạp mà bản thân ngân hàng hoặc một ngành nào đó không thể thực

hiện được. Cho nên, đòi hỏi phải có sự phối hợp và tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa các ban ngành, địa phương, các tổ chức chính trị ­ xã hội để cùng hành động, đặc biệt là ở cấp xã, phường, vừa tạo sự đồng thuận trong xã hội, vừa phát huy trách nhiệm của từng thành viên và của cả cộng đồng trong phát triển kinh tế ­ xã hội, trong việc chăm lo đến sản xuất và đời sống nhân dân.

3.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy và cán bộ


Suy cho cùng, tổ chức bộ máy và cán bộ là khâu quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến mọi thành bại của công việc. Thật vậy, nếu không có

một tổ

chức bộ

máy hợp lý, được tổ

chức một cách khoa học, dựa trên

những chức năng, nhiệm vụ đã được xác định thì không thể hoạt động có hiệu quả. Và, nếu không có một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất đạo đức, có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì cũng không thể phát huy được vai trò của tổ chức bộ máy, không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy, giữa tổ chức bộ máy và cán bộ có quan hệ biện chứng với nhau. Trước hết, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ công tác của từng ngành, từng

lĩnh vực, từng địa phương mà hình thành tổ

chức bộ

máy để

thực hiện

những nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời trên cơ sở tổ chức bộ máy đó mà xác định số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ

cán bộ

một cách hợp lý nhằm đảm bảo cho tổ

chức bộ

máy hoạt động

đồng bộ, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Do đó, để đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình trong giai đoạn mới cần phải:

3.2.3.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng đối với kinh tế

hộ

Những năm qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

huyện Thăng Bình đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng, củng cố tổ

chức bộ

máy và cán bộ, và trong một chừng mực nhất định đã đáp

ứng

được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành. Tuy nhiên, trước những khó

khăn, thách thức của nền kinh tế

thị

trường và trước những đòi hỏi của

hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ trong qua trình phát triển nông

nghiệp, nông thôn theo hướng CNH,HĐH thì tổ chức bộ máy của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình còn


nhiều hạn chế, bất cập, chưa ngang tầm. Do vậy, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng đối với kinh tế hộ được coi là một giải pháp cần thiết, có tác dụng tích cực đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng. Cụ thể là:

­ Nghiên cứu bố trí, sắp xếp lại các bộ phận chuyên môn một cách

hợp lý, như: bộ

phận

thẩm định, bộ

phận nghiệp vụ

huy động vốn, bộ

phận nghiệp vụ kế toán ­ ngân quỹ, bộ phận nghiệp vụ tín dụng… Đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận chuyên môn này một cách cụ thể, rành mạch, tách bạch, tránh chồng chéo, giẫm đạp hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, không phát huy được hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy.

­ Tổ chức lại hệ thống các điểm giao dịch ở các vùng nông thôn hợp lý hơn. Chẳng hạn, đối với những vùng đông dân cư, địa bàn hoạt động rộng, cần tổ chức từ 1­2 điểm giao dịch để phục vụ tốt hơn nhu cầu cho vay đối với kinh tế hộ, nhằm tạo thuận lợi cho việc đi lại giao dịch của nhân dân và cán bộ tín dụng, giảm áp lực cho cán bộ chuyên môn, nhất là vào lúc thời vụ, số lượng hộ vay tăng cao.

­ Xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động tín dụng theo hướng vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của chi nhánh ngân hàng, vừa tăng thêm quyền

hạn cho cơ

sở, gắn với tránh nhiệm của từng tổ

chức và cá nhân, nhằm

phát huy tính chủ động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Theo đó, lãnh đạo chi nhánh không bao biện làm thay công việc của cấp dưới, nhưng cũng không buông lỏng quản lý, mà phải có sự lãnh đạo, kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên công việc của họ, thông qua các quy chế, cơ chế về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

­ Đổi mới công tác quản lý cán bộ. Đây là sự cần thiết khách quan nhằm phát huy tính tự giác, năng động, sáng tạo, lòng nhiệt tình, tính tích

Xem tất cả 149 trang.

Ngày đăng: 07/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí