Ngoài ra, phòng Tư liệu cần triển khai dịch vụ CAS, CAS bao gồm một hệ thống các dịch vụ, thông qua việc tìm kiếm xác định những tài liệu mới phù hợp với nhu cầu của người dùng tin, sau đó thông báo cho họ thông tin về tài liệu. Phòng Tư liệu khoa nên phát triển loại dịch vụ này, thông báo cho người dùng tin danh mục các tài liệu mới xuất bản bổ sung vào kho.
Thêm vào đó, dịch vụ mượn liên thư viện cũng cần được phòng Tư liệu chú trọng: Một số cơ quan TT - TV có thể liên kết với nhau để cho phép NDT của mỗi cơ quan thành viên thông qua mình sử dụng chung nguồn tài liệu của tất cả các cơ quan này. Ngày nay, dịch vụ này được mở rộng không chỉ đối với các cơ quan có quan hệ với nhau, mà một cơ quan TT - TV có thể thực hiện dịch vụ này với bất kỳ các cơ quan khác khi NDT có yêu cầu. Do nhu cầu sử dụng tài liệu của NDT luôn luôn phát triển, diện tài liệu phù hợp với nhu cầu của họ không ngừng được mở rộng. Tài liệu nói chung không ngừng gia tăng về số lượng, đồng thời giá thành cho mỗi tài liệu không ngừng gia tăng. Cho nên, dịch vụ mượn liên thư viện đã ra đời, để không ngừng nâng cao hiệu quả và khả năng của dịch vụ cung cấp tài liệu, các cơ quan TT - TV cần hợp tác chặt chẽ với nhau, thực hiện quá trình chia sẻ nguồn lực một cách có hệ thống và ổn định. Phòng Tư liệu Khoa nên phát triển dịch vụ này, để có thể liên kết, chia sẻ nguồn lực thông tin tới các phòng Tư liệu khác trong trường và các cơ quan TT - TV trong nước.
Phòng Tư liệu cũng cần phát triển thêm các dịch vụ khác như dịch vụ hồi cố, dịch vụ CSDL toàn văn, dịch vụ tham khảo. Đa dạng hóa các dịch vụ thông tin dưới nhiều hình thức sinh động, lôi cuốn được nhiều đối tượng bạn đọc như triển lãm sách chuyên ngành TT - TV, hội nghị hội thảo, nói chuyện về chuyên đề, hội nghị bạn đọc, ngày hội đọc sách,...với mục đích trao đổi và cung cấp thông tin kịp thời tới NDT.
Trong thời gian tới những hoạt động của ngành TT - TV sẽ diễn ra không ngừng với mức độ đòi hỏi ngày càng cao và chuyên nghiệp hơn. Các ứng dụng của CNTT sẽ được đưa vào hoạt động thư viện ngày càng phổ biến và đa dạng hơn. Trong đó các sản phẩm và dịch vụ TT - TV hiện đại sẽ ra đời nhiều hơn góp phần đáp ứng nhu cầu tin ngày càng phức tạp của NDT. Do vậy, phòng Tư liệu Khoa cần đảm bảo chất lượng và số lượng SP - DV TT - TV, có chính sách bảo quản và nâng cấp hợp lý tránh hỏng hóc, mất mát,...Đặc biệt nên có sự quan tâm và tập trung hơn nữa vào việc xây dựng các SPTT mang tính chuyên ngành TT - TV như các sản phẩm thư mục về thông báo sách mới,...
Đầu tư từng bước hợp lý phát triển các loại hình SP - DV TT - TV hiện đại phù hợp với tình hình phát triển chung, có cơ chế đúng đắn trong việc phối hợp với các phòng Tư liệu trong trường và cơ quan TT - TV bên ngoài để có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm đặc biệt là các SP TT - TV trực tuyến mà các cơ quan TT - TV đã đưa vào hoạt động và rất thành công trong những năm gần đây.
Xây dựng một kế hoạch phát triển các SP - DV TT - TV có tính toán chi tiết, thẩm định chất lượng, có kiểm tra hiệu quả phục vụ NDT nhằm góp phần tích cực vào việc xây dựng phòng Tư liệu Khoa có thể xứng tầm với các cơ quan TT - TV.
SP - DV TT - TV cũng như bất cứ yếu tố nào của hoạt động thư viện, cần lấy NDT làm căn bản, làm mục tiêu phát triển sao cho phù hợp với mỗi một sản phẩm và dịch vụ của phòng Tư liệu đều hoàn thành tốt đáp ứng nhu cầu tin ngày càng phong phú đa dạng của NDT.
3.3. Nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị
Có thể bạn quan tâm!
- Các Dịch Vụ Thông Tin - Thư Viện Tại Phòng Tư Liệu Khoa Thông Tin- Thư Viện Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
- Tìm hiểu sản phẩm và dịch vụ của phòng tư liệu Khoa Thông tin - Thư viện trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN - 5
- Những Giải Pháp Phát Triển Sp - Dv Tt - Tv
- Tìm hiểu sản phẩm và dịch vụ của phòng tư liệu Khoa Thông tin - Thư viện trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN - 8
Xem toàn bộ 67 trang tài liệu này.
Do diện tích phòng Tư liệu còn nhỏ, hạn chế số lượng NDT đến với phòng Tư liệu. Hệ thống trang thiết bị còn thiếu đồng bộ, hạn chế số
lượng máy tính, bạn đọc đến tra tìm trên mát tính phải chờ đợi để được sử dụng máy tính tra cứu.
Do đó, phòng Tư liệu có các biện pháp nâng cấp hạ tầng cơ sở vật chất như:
- Cần mở rộng thêm diện tích phòng.
- Trang bị thêm máy tính, trang bị thêm bàn ghế để phục vụ bạn đọc, cần chỉnh sửa lại máy điều hòa, có những thiết bị để bảo quản tài liệu được tốt hơn, tránh nấm mốc, hư hỏng tài liệu.
- Nâng cấp phần mềm máy tính để bạn đọc có thể tra cứu và sử dụng hiệu quả hơn.
3.4. Đào tạo người dùng tin
NDT đóng vai trò vừa là khách thể vừa là chủ thể của nguồn tin, đặc biệt là đối với đội ngũ làm công tác nghiên cứu giảng dạy. Thông tin cần được cung cấp kịp thời, đầy đủ bằng phương thức hiện đại sẽ giúp họ giảm thiểu được thời gian nghiên cứu, sản sinh ra thông tin mới có chất lượng cao tránh nghiên cứu trùng lặp.
NDT của bất kỳ cơ quan TT - TV nào cũng chính là đối tượng phục vụ, là mục tiêu hoạt động của thư viện đó. NDT chính là một bộ phận không thể thiếu cấu thành nên thư viện. Với phòng Tư liệu Khoa TT - TV NDT chính là các cán bộ đang nghiên cứu và giảng dạy tại khoa, là các em sinh viên học tập tại khoa và một số cán bộ và sinh viên ngoài khoa cùng theo học chuyên ngành TT - TV đến phòng Tư liệu để mượn tài liệu phục vụ mục đích và nhu cầu của mình.
Trước những đổi mới của khoa học và công nghệ, việc đổi mới phương thức truy cập, khai thác thông tin, phát triển SP - DV TT - TV, đào tạo NDT là vô cùng cần thiết. Do vậy cần có những cách thức đào tạo
NDT để NDT đến với phòng Tư liệu có thể tự tìm kiếm tài liệu phục vụ nhu cầu tin của mình.
Cần đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết cho NDT để họ biết cách sử dụng máy tính tìm kiếm và sử dụng các loại hình và sản phẩm thông tin.
Phòng Tư liệu nên có các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, thu hút sự chú ý của NDT, để dần dần tạo cho NDT có thói quen và khả năng tiếp cận các nguồn tin qua các phương tiện hiện đại, phục vụ đắc lực vào việc nghiên cứu và học tập.
Tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm của NDT khi tham gia tìm tin tại phòng Tư liệu. Hướng dẫn họ sử dụng thông tin phải phù hợp với những chuẩn mực chung của phòng Tư liệu, tôn trọng và chấp hành đúng nội quy mà cán bộ phòng Tư liệu đề ra, điều này thể hiện ý thức của NDT trong việc sử dụng phòng Tư liệu.
Có ý thức chung trong việc giữ gìn trật tự và giữ vệ sinh chung trong phòng Tư liệu.
Khi khả năng khai thác, sử dụng thông tin của NDT ở trình độ cao thì đòi hỏi nhu cầu tin của NDT ngày càng cao, dẫn tới sức ép phải tạo ra các sản phẩm và dịch vụ TT - TV ngày càng phát triển. Vì vậy, nếu càng có nhiều NDT tích cực thì hoạt động của cơ quan TT - TV đó càng có điều kiện phát triển hơn. Do vậy, công tác đào tạo, tập huấn, giáo dục NDT là một công tác quan trọng, vừa giúp sử dụng hiệu quả nguồn lực thông tin của phòng Tư liệu, vừa góp phần tạo ra các thông tin có chất lượng cao. Đặc biệt, NDT của phòng Tư liệu Khoa chủ yếu là NDT đã biết nhiều về chuyên ngành và hoạt động TT - TV nên cần phải đào tạo để NDT có thể tự tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu của mình.
3.5. Nâng cao trình độ cán bộ phục vụ
Người cán bộ TT - TV là linh hồn của sự nghiệp thư viện. Chính vì vậy, họ cần nắm vững quy trình hoạt động TT - TV. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khoa học CNTT bùng nổ đòi hỏi người cán bộ cần nâng cao trình độ của mình. Cần nắm vững các kiến thức và thao tác chuyên môn nghiệp vụ về TT - TV. Có kiến thức vững vàng về tin học và ngoại ngữ để làm chủ trang thiết bị hiện đại và ứng dụng CNTT vào hoạt động TT - TV. Có kỹ năng phân tích, tổng hợp, xử lý, khai thác các nguồn thông tin để tạo ra các SP - DV thông tin có giá trị để phục vụ NDT.
Hiện nay, phòng Tư liệu Khoa có duy nhất một cán bộ có trình độ thạc sĩ chuyên ngành TT - TV vừa làm thủ thư vừa kiêm trợ lý đào tạo.
Tiếp tục tăng cường chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ trong thư viện, đào tạo cán bộ trong hệ thống thư viện đó là nâng cao các kỹ năng xây dựng, quản lý các SP - DV TT - TV truyền thống và hiện đại. Đó là điều cốt lõi để nâng cao hiệu quả đáp ứng nhu cầu tin của NDT.
Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính, sử dụng phần mềm cho cán bộ thư viện, mở các lớp về đào tạo về nghiệp vụ trong công tác phục vụ bạn đọc trên giao diện máy tính, đào tạo các kỹ năng quản trị trang Web cho cán bộ thư viện,...
Đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ phòng Tư liệu, đồng thời bồi dưỡng trình độ tin học và ngoại ngữ, chuyển giao công nghệ cho cán bộ phòng để từ đó họ có kiến thức, kỹ năng xử lý, khai thác thông tin ở mọi dạng khác nhau.
Cử cán bộ tham gia các lớp học, đi tham quan, khảo sát, học hỏi kinh nghiệm nâng cao năng lực quản lý và điều hành hoạt động thư viện ở các cơ quan TT - TV lớn và phát triển.
Có định hướng lâu dài cho kế hoạch đào tạo cán bộ có năng lực, hạn chế thuyên chuyển cán bộ làm tại bộ phận này. Cần tuyển thêm cán bộ phụ trách phòng Tư liệu, vì hiện nay phòng chỉ có 1 cán bộ chuyên trách vừa làm trợ lý đào tạo, vừa đảm nhiệm công việc của một cán bộ thư viện.
Cán bộ phòng Tư liệu cần nắm rõ phương thức đào tạo theo tín chỉ để có thể phục vụ người dùng tin hiệu quả nhất.
Đồng thời cũng cần khuyến khích, động viên cán bộ tự học, tự rèn luyện để nâng cao kiến thức cho bản thân mình, từ đó đóng góp tích cực trong công tác chung của thư viện.
3.6. Quan hệ hợp tác trong và ngoài nước
Với tinh thần “Hợp tác - Hữu nghị - Phát triển”, phòng Tư liệu Khoa TT - TV đã không ngừng tăng cường, củng cố, thiết lập mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức TT - TV trong và ngoài nước. Hiện nay, phòng Tư liệu Khoa có mối quan hệ với tất cả các phòng Tư liệu chuyên ngành của khoa/ bộ môn trong phạm vi trường ĐHKHXH&NV, Trung tâm TT - TV ĐHQGHN, các trung tâm TT - TV trong và ngoài nước như: Trung tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Viện nghiên cứu Khoa học Xã hội, Thư viện các trường đại học như: Thư viện trường đại học Hà Nội, thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư viện Đại học Ngoại thương, Thư viện Trung ương Quân đội. Các trung tâm TT - TV nước ngoài như: Thư viện Quốc hội Mỹ, Thư viện Quốc gia Newzealand, Thư viện Quốc gia Canada,...Điều này giúp cho hoạt động trao đổi, hợp tác bổ sung làm tăng nguồn thông tin, phát huy hiệu quả phục vụ nghiên cứu và đào tạo. Đồng thời tiếp thu, học hỏi những kinh nghiệm trong hoạt động TT - TV giúp cho phòng Tư liệu Khoa ngày càng phát triển qua đó thể hiện tầm quan trọng và vị thế của Khoa trên trường quốc tế.
Ngày nay, trong thời kỳ bùng nổ thông tin, phòng Tư liệu của Khoa không thể thỏa mãn được mọi nhu cầu của NDT. Việc liên kết với một cơ quan TT - TV khác đang là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mọi tổ chức nói chung và phòng Tư liệu Khoa TT - TV nói riêng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan TT - TV là một yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách để tăng cường phối hợp bổ sung nguồn thông tin vào phòng tư liệu mình, làm cho phong phú nguồn thông tin và tiết kiệm được nguồn kinh phí rất lớn cho việc bổ sung tài liệu hàng năm.
Trao đổi sản phẩm TT - TV, đó là việc liên kết các thư viện ở các trường đại học khác để có thể trao đổi sản phẩm thông tin một cách có hiệu quả thông qua mua bán, biếu tặng.
Mở rộng hợp tác quốc tế trong khai thác tin trực tuyến và gián tuyến, liên kết với các website của các thư viện trên thế giới như: website của thư viện Quốc gia Canada: http://www.collectionscanada.ca/; website của thư viện Quốc hội Mỹ: http://www.loc.gov; website của thư viện Quốc gia Newzealand: http://www.natlib.govt.nz;...Đây là một việc làm hết sức cần thiết, bởi trong thời đại thông tin việc giao lưu thông tin giữa các nước trên thế giới là rất phổ biến.
Học hỏi dịch vụ của nước ngoài với công nghệ thông tin phát triển hiện đại. Cần có những đổi mới trong việc phát triển các dịch vụ như: xây dựng các điểm truy cập, các CSDL để có thể quản lý tài liệu. Mua các phần mềm cũng như các thiết bị của các nước có nền công nghệ thông tin hiện đại như phần mềm Libol,...của các công ty như CMC, Tinh Vân phát triển các dịch vụ đáp ứng nhu cầu tin ngày càng nhiều của người dùng tin.
KẾT LUẬN
Thông tin đóng một vai trò là lực lượng sản xuất, các cán bộ, giảng viên, sinh viên phải khai thác một khối lượng thông tin lớn để phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của mình. Phòng tư liệu của khoa là một địa chỉ tin cậy mà cán bộ và sinh viên trong khoa thường xuyên lui tới để tiếp thu và trau dồi kiến thức. Việc nắm rõ các SP
- DV của phòng Tư liệu Khoa là vô cùng cần thiết, nó tác động đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của khoa. Hơn nữa, phòng Tư liệu Khoa là một trong những phòng Tư liệu có số lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin phát triển so với các khoa khác trong trường ĐHKHXH&NV. Do vậy cần có những biện pháp hoàn thiện các dịch vụ và sản phẩm thông tin để ngày càng đáp ứng được nhu cầu tin của bạn đọc theo phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Trong thời đại ngày nay, CNTT đã tác động vào công tác thông tin - thư viện ngày càng sâu sắc và toàn diện. Là một thành viên trong hệ thống TT - TV, phòng Tư liệu Khoa TT - TV cần được đổi mới, hiện đại hóa để đáp ứng nhu cầu tin, phục vụ thông tin cho giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của một ngành khoa học mới trọng điểm, phục vụ tốt nhu cầu tin của NDT trong xu thế chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang đào tạo theo tín chỉ. Do vậy, cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Ban Chủ nhiệm Khoa và Trường trong việc đầu tư kinh phí để phòng Tư liệu có thể bổ sung thêm các SP - DV như các tài liệu, nâng cấp phần mềm, trang thiết bị, các dịch vụ mới thu hút đông đảo NDT đến với phòng Tư liệu hơn, đưa phòng Tư liệu trở nên hiện đại hơn, góp phần tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong công cuộc đổi mới và hội nhập.