Tìm hiểu con người cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - 2

Hạc lâu, Quá Trường Thành, Chiêu quân mộ, Đáp vấn… Tác giả nhận định: “Trong các nhà thơ thời Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn có lẽ là người có nhiều bài thơ hay nhất về Thăng Long và là một tác giả có diện mạo riêng rất rò” [7, 305].

Nguyễn Thạch Giang trong Tinh tuyển văn học Việt Nam (Tập 5 – Quyển 2), Nxb Khoa học Xã hội, 2004 trình bày những nét chính về tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn. Công trình lựa chọn 23 bài thơ trích trong Hải Ông thi tập để khảo dị, chú thích, dịch nghĩa, cùng lời nhận xét về Đoàn Nguyễn Tuấn: “Ông đã để lại cho chúng ta một tập thơ – Hải Ông thi tập – ngót 250 bài. Nội dung thơ ông cho ta thấy ông là con người trầm mặc, thanh cao, chân thành, giản dị, thiết tha với quê hương, với tổ quốc. Thơ ông lời chải chuốt, thanh thoát, gợi cảm, ít điển cố. Một số bài ca ngợi triều đại Tây Sơn, nhiệt liệt ngưỡng mộ Quang Trung, hào hứng trước quang cảnh đất nước dưới triều đại mới” [3, 55].

Trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Nxb Thế giới, 2004, mục “Đoàn Nguyễn Tuấn”, Phạm Tú Châu trình bày sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Trong đó có đưa ra nhận xét: “Nhìn chung thơ Đoàn Nguyễn Tuấn dù sáng tác dưới thời Quang Trung (1753 – 1792) hay Quang Toản (1783 – 1802), đều có những bài chân thành và hào hứng ca ngợi triều đại mới, ca ngợi vò công đánh quân Thanh, dẹp Nguyễn Ánh của đội quân Tây Sơn, mang lại cảnh thanh bình, thịnh trị cho đất nước […]; hoặc biểu lộ niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc […]. Đoàn Nguyễn Tuấn còn cho thấy niềm phấn khởi, lòng tin, ý mong muốn đóng góp nhiều cho thời đại mới. Nhà thơ cũng không giấu giếm những ý nghĩ tiêu cực, buồn nản để lộ rải rác trong thơ. Đó là một sự thật khó tránh. Là một trí thức có gia đình, bạn bè, thân thích đều là những đại thần của triều đại cũ mà nhiều người trong họ cũng như chính tác giả đã từng

ôm chí khôi phục nhà Lê nhà Trịnh, Đoàn Nguyễn Tuấn trong tập thơ của mình thành thực nhận rằng ông chưa rũ bỏ được hết nỗi băn khoăn, day dứt – những mâu thuẫn và đấu tranh khi đã đi theo Tây Sơn. Tuy nhiên, cuối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn đã vượt được dư luận, vượt được giáo lý và những mặc cảm của đời và của mình để phục vụ thủy chung cho triều đại mới. Hải Ông thi tập cũng đã ghi nhận điều đó” [6, 52].

Có thể thấy, cho tới nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về con người cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cùng một số nhận xét về phong cách, tư tưởng của tác giả. Đó sẽ là cơ sở quan trọng và cần thiết cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi trong việc đi sâu khai thác đề tài này.

3. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật thể hiện con người cá nhân trong Hải Ông thi tập nhằm cho ra đời một nghiên cứu về con người cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn, cụ thể là các tác phẩm được tập hợp trong Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập do Nguyễn Tuấn Lương, Đào Phương Bình, Trần Duy Vôn dịch và chú thích, Nxb KHXH, 1982.

5. Phạm vi nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 72 trang tài liệu này.

Trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề con người cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn thông qua những biểu hiện từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật thể hiện.

6. Phương pháp nghiên cứu

Tìm hiểu con người cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - 2

- Phương pháp hệ thống

- Phương pháp phân tích

- Phương pháp lịch sử

- Phương pháp so sánh

7. Đóng góp của khóa luận

Thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận muốn góp thêm một cái nhìn mới mẻ về con người cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn qua nội dung và hình thức nghệ thuật thể hiện.

8. Bố cục khóa luận

Khóa luận tốt nghiệp được bố cục như sau:

MỞ ĐẦU NỘI DUNG

Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Con người cá nhân trong Hải Ông thi tập từ phương diện nội

dung

Chương 3: Con người cá nhân trong Hải Ông thi tập từ phương diện

nghệ thuật

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

NỘI DUNG

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Vấn đề con người cá nhân trong văn học

Macxim Gorki từng nói: “Văn học là nhân học, văn học là một khoa học nghiên cứu về con người”. Vấn đề con người cá nhân trong văn học từ lâu đã được các nhà nghiên cứu chú ý và quan tâm. D.X.Likhachôp trong công trình Con người trong văn học Nga cổ xưa (Matxcơva, 1958, tái bản 1970) cũng đã đề cập đến con người cá nhân trong văn học Nga thế kỉ XVII. XX.Avêrixep trong Văn học Hy Lạp và văn chương Cận Đông (Matxcơva, 1971) cho rằng: “người kể chuyện cổ đại đã nhận trách nhiệm cá nhân về tất cả những gì họ kể”. A.V.Mikhailôp khi nghiên cứu Quan hệ Tiểu thuyết và phong cách (Matxcơva, 1982) đã nhận xét rằng: “thời trung đại đã có những biểu hiện mang tính cá nhân chống lại các truyền thống chung”.

Trong văn học trung đại, vấn đề con người cá nhân cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một trong những đặc điểm của văn học trung đại là tính “vô ngã” (không có cái tôi). Nhưng không vì thế mà văn học trung đại không có những nét riêng của cái tôi cá nhân. Vấn đề này cho đến nay vẫn còn đưa ra nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận được, đó là mỗi cá tính sáng tạo riêng của một tác giả trong sự nghiệp sáng tác của mình đều ít nhiều được thể hiện. Tập thể tác giả: Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân đã có riêng một công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này, đó là Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Trong đó, Trần Đình Sử chỉ ra rằng: con người cá nhân trong văn học thời Lý – Trần nổi bật là “con người yêu nước, trung nghĩa”, như trong thơ Lý Thường Kiệt (1019 – 1105), Trần Quang Khải (1241 – 1294), Trần Quốc Tuấn (1226 – 1300), Đặng Dung (thế kỉ XV). Bên cạnh đó, con người trong văn học giai

đoạn này “chưa chịu sự ràng buộc chặt chẽ của Nho giáo, còn đầy tinh thần tự chủ, tiến thủ, tích cực kiểu Thiền tông, hoặc con người vô ngôn, vô ngã, tự do, phá chấp theo giáo lý nhà Phật” [16, 33]. Sang thế kỉ XV – XVII, con người cá nhân xuất hiện dưới các hình thái chính “hoặc là lìa bỏ công danh, lìa bỏ thị phi, khen chê, “độc thiện kỳ thân”, đối lập với kẻ khác phàm tục, hoặc là đam mê vật dục, sắc dục như một tội lỗi, trái với đạo lí nhưng đã không còn mặc cảm tội lỗi, trái lại đã biểu hiện được cảm giác đam mê, đẹp, lãng mạn” [16, 163]. Tác giả tiêu biểu trong giai đoạn này phải kể đến Nguyễn Trãi (1380 – 1442), một con người nhân nghĩa, yêu nước nhưng phải chịu nhiều bi kịch. Con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi được bộc lộ ở sự lựa chọn giữa “các tư tưởng, các con đường lập thân, dưỡng thân và nhất là bảo thân”. Ông luôn quan niệm người có tài thì phải dùng vào việc lớn, có ích cho nhân dân, đất nước: “Lâm truyền ai rặng giá lâm khách?/ Tài đống lương cao ắt cả dùng!/ Đống lương tài có mấy bằng mày.” (Tùng). Sang thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu suy tàn, con người cá nhân vì thế cũng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc. Nếu Nguyễn Trãi khẳng định con người cá nhân mình khi đối lập “ta” với “chúng ngươi” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) lại khẳng định mình qua hình thức đối lập “khép kín, không giao tiếp, bằng tư thế “độc thiện kỳ thân” – cô độc một cách cao quý, thanh sạch” [16, 157]. Trái với con người mang lí tưởng thuần khiết, cao cả trong thơ thiền Lý

– Trần, Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người sống trong “đam mê, sắc dục” trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tính “dục” của cá nhân con người được đặt trong mối quan hệ của tình yêu nam nữ. Có thể kể đến cuộc gặp gỡ ái ân của Trung Ngộ với hồn ma Nhị Khanh, cuộc kì ngộ xướng họa của Hà Nhân ở trại Tây, rồi kì ngộ Hàn Than và Vô Kỷ, Nhuận Chi và Túy Tiêu, Thị Nghi với quan họ Hoàng… Về mặt đạo lý, những cuộc gặp gỡ này không được nhà nho chấp nhận. Nhưng về mặt tình cảm lại được tác giả một tả một

cách khá đẹp, tình tứ trong những vần thơ. Từ đó thể hiện khát vọng cá nhân mạnh mẽ trong cuộc đời trần tục. Đặc biệt giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII – XIX, cái tôi cá nhân đã xuất hiện như một hiện tượng xuyên suốt qua nhiều tác giả khác nhau. Đây được xem là giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam đi vào tình trạng sụp đổ, vô cùng bế tắc. Điều đó khiến cho con người trong văn học “kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên” [16, 194]. Xuất hiện dòng tư tưởng thương người, xót thân bên cạnh sáng tác mang hướng hưởng lạc và trào phúng. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm là khúc ngâm của “cái tôi” cá nhân người chinh phụ mang bao nỗi niềm, bao sự nhớ mong, chờ đợi, tủi hờn, hi vọng, khát vọng và là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ của cá nhân người chinh phụ từ nơi khuê phòng đến nơi biên ải, chiến trường xa. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương… là những tiếng nói đòi quyền sống, quyền làm người, quyền được thể hiện “cái tôi” cá nhân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ngoài ra văn học giai đoạn này còn chứng kiến sự xuất hiện của “con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài khuôn khổ” (thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát), “con người cá nhân giải thoát bằng hưởng lạc” (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), “con người cá nhân trống rỗng, mất hết ý nghĩa” (thơ Nguyễn Khuyến).

Như vậy, có thể khẳng định dù mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học bao giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Nhà mỹ học Lý Trạch Hậu cũng đã từng nói: “Cái gọi là vô ngã, không phải là nói nhà nghệ sĩ không có tư tưởng, tình cảm cá nhân ở trong tác phẩm, mà là nói tư tưởng, tình cảm đó không trực tiếp ngoại lộ” [11, 54].

1.2. Thân thế, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn

Đoàn Nguyễn Tuấn (? - ?) hiệu là Hải Ông, quê ở Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay là Quỳnh Phụ), tỉnh Thái Bình.

Đoàn Nguyễn Tuấn là con trai Thám hoa Đoàn Nguyễn Thục (1718 – 1775), con rể tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1702 – 1773) và là anh vợ thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820).

Năm 1786, Trịnh Bồng lên ngôi, Đoàn Nguyễn Tuấn đã tập hợp dân làng đến họp về việc khởi binh giúp Trịnh Bồng đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, dành lại ngôi chúa, ổn định tình hình xã hội bấy giờ nhưng việc không thành. Cuối năm 1787, Vũ Văn Nhậm – tướng Tây Sơn đem quân ra Bắc, giết Nguyễn Hữu Chỉnh và đuổi vua Lê Chiêu Thống. Đây là giai đoạn khiến cho Đoàn Nguyễn Tuấn và các nho sĩ Bắc Hà thời bấy giờ mang trong lòng vô số hoang mang, đắn đo lựa chọn những ngả đường xuất xử khác nhau.

Cuối năm 1787, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đứng ra giúp nhà Tây Sơn, ông được giao chức Hàn lâm trực học sĩ (1788).

Tháng 9 năm 1789, Đoàn Nguyễn Tuấn vâng mệnh vua Quang Trung đi tiếp sứ Thanh ở trấn Lạng Sơn.

Năm 1790, ông cùng Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích được cử vào đoàn sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc yết kiến vua Càn Long. Khi hoàn thành chuyến đi sứ trở về, Đoàn Nguyễn Tuấn được thăng làm Tả thị lang bộ Lại, tước Hải Phái hầu (1791).

Năm 1794, Hải Ông được lệnh đến Phú Xuân. Trên hành trình đi ông có viết bài thơ: Giáp Dần mạnh thu phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt Bắc Thành chư hữu (Đầu mùa thu năm Giáp Dần vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, khi lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc thành). Toàn bộ bài thơ là niềm vui cũng như niềm tin tưởng, lạc quan của ông vào triều đại mới.

Năm 1798, Đoàn Nguyễn Tuấn được vua Quang Trung cử đi hộ giá tuần du phương Nam. Ông ghi lại sự kiện này bằng hai bài thơ: Mậu Ngọ Mạnh Đông phụng hộ Nam tuần, hiểu phát Hương giang Mậu Ngọ niên tái quan Nam hà, dật quan đô úy kinh thảng tương ngộ vu khế chi ngụ, toại tương dữ

vãng lai, y cầu quan Nam du tập họa lưu tặng nguyên tác. Dư nhân y vận đáp phục.

Năm 1792, vua Quang Trung mất, Quang Toản lên kế vị. Quang Toản lên ngôi khi còn quá trẻ (9 tuổi) và chưa có kinh nghiệm nên không giữ được việc triều chính. Mọi việc đều do cậu là Bùi Đắc Tuyên là thái sư nắm giữ. Chính sự rối ren, các đại thần quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục. Thêm vào đó ở phía Nam, nhân cơ hội này Nguyễn Ánh câu kết với quân Xiêm nhằm lật đổ triều Tây Sơn, giành lại chính quyền về phía mình. Tiếp tục phục vụ cho triều Tây Sơn nhưng Đoàn Nguyễn Tuấn tỏ ra có phần buồn chán với con đường công danh sự nghiệp. Một thời gian sau ông quyết định lui về quê chọn một cuộc sống thanh nhàn (1800).

Sự nghiệp văn học của Đoàn Nguyễn Tuấn cho đến nay còn duy nhất tập thơ Hải Ông thi tập với khoảng 241 bài; bao gồm 146 bài thất ngôn bát cú, 34 bài thất ngôn tứ tuyệt, 12 bài ngũ ngôn, 03 bài ca, 03 bài hành, và 01 bài làm theo thể liên cú, 42 bài chưa được dịch; chia làm 2 phần: thơ viết trong nước (139 bài) và thơ đi sứ (102 bài). Nội dung thơ ông cho thấy “ông là con người trầm mặc, thanh cao, chân thành, giản dị, thiết tha với quê hương, với tổ quốc. Thơ ông lời chải chuốt, thanh thoát gợi cảm, ít điển cố. Một số bài ca ngợi triều đại Tây Sơn, nhiệt liệt ngưỡng mộ Quang Trung, hào hứng trước quang cảnh đất nước dưới triều đại mới” [3, 55].

Tiểu kết chương 1

Tính “phi ngã” là một trong những đặc điểm của thi pháp văn học trung đại. Tuy nhiên, vấn đề con người cá nhân trên tiến trình văn học lại xuất hiện như một nhu cầu thiết yếu. Có thể nói, vấn đề con người cá nhân trong thơ Việt Nam trung đại đã hình thành, phát triển qua một quá trình biểu hiện sáng tạo. Và đến giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX thì vấn đề con người cá nhân đã dần được khẳng định một cách mạnh mẽ.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022