Cơ Sở Lí Luận Và Thực Tiễn Về Phát Triển Du Lịch


5.2.3. Phương pháp khảo sát thực địa

Đây là phương pháp rất quan trọng và không thể thiếu khi nghiên cứu địa lí tự nhiên hay địa lí KT-XH ở địa phương. Trong quá trình thực địa, người thực hiện có thể thu thập trực tiếp số liệu thông tin với độ tin cậy chính xác cao trên địa bàn nghiên cứu. Đồng thời hoàn toàn chủ động quan sát, ghi chép, chụp ảnh,… và đối chiếu những nhận định, phân tích, đánh giá đã thực hiện để khẳng định giá trị thực tiễn của kết quả nghiên cứu.

5.2.4. Phương pháp bản đồ

Phương pháp bản đồ là một phương pháp nghiên cứu truyền thống của Địa lí học - “bắt đầu và kết thúc bằng bản đồ”. Phương pháp bản đồ được sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình nghiên cứu nhằm xác định ranh giới nghiên cứu một cách cụ thể, chính xác, tránh sự nhầm lẫn về không gian. Đồng thời xây dựng các bản đồ tài nguyên du lịch, hiện trạng phát triển du lịch và định hướng phát triển để thể hiện kết quả nghiên cứu một cách trực quan và khoa học.

6. Đóng góp của luận văn

Một số đóng góp chủ yếu của luận văn là:

- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về phát triển du lịch ở một lãnh thổ nói chung để vận dụng vào thực tiễn nghiên cứu phát triển du lịch Quận 9 (TP.HCM).

- Phân tích tổng hợp các điều kiện phát triển du lịch của Quận 9 trên quan điểm địa lí du lịch.

- Đánh giá hiện trạng phát triển du lịch Quận 9, từ đó rút ra những thành tựu và hạn chế để góp thêm cơ sở cho việc đề xuất phát triển du lịch trên địa bàn một cách hiệu quả hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

- Đề xuất định hướng phát triển du lịch Quận 9 đến năm 2020 và các giải pháp thực hiện.

7. Bố cục luận văn

Tiềm năng và định hướng phát triển du lịch ở quận 9 TP.HCM - 3

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:


- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển du lịch

- Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch Quận 9 (TP.HCM).

- Chương 3: Định hướng phát triển du lịch Quận 9 (TP.HCM) đến năm 2020 và các giải pháp thực hiện.

Ngoài ra, trong luận văn còn có 8 bảng số liệu, 1 biểu đồ, 2 bản đồ và 4 phụ

lục.


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH‌‌


1.1. Các khái niệm

1.1.1. Du lịch

Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của hoạt động du lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và kinh tế du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới.

Trên thực tế, hoạt động du lịch đã xuất hiện từ thời kỳ cổ đại Ai Cập và Hy Lạp, rồi tiếp tục phát triển thăng trầm cho đến nay. Tuy nhiên, du lịch thế giới chỉ thực sự phổ biến từ cuối thế kỷ XIX và bùng nổ vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX, khi cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai đem lại những thành quả vô cùng to lớn về KT-XH.

Cho đến nay đã tồn tại rất nhiều định nghĩa về du lịch dưới các góc độ tiếp cận khác nhau.

Năm 1811, định nghĩa về du lịch lần đầu tiên xuất hiện ở nước Anh: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lí thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí” [17]. Khái niệm này tương đối đơn giản và coi giải trí là động cơ chính của hoạt động du lịch.

Năm 1930, Glusman người Thụy Sĩ cho rằng: “Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên” [17].

Hai học giả Humziker và Krapf, những người đặt nền móng cho lí thuyết và cung - cầu du lịch đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tập hợp của các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời” [17]. So với các quan điểm


trên, quan điểm của Humziker và Krapf đã thể hiện tương đối đầy đủ và bao quát các hiện tượng du lịch. Tuy nhiên quan niệm này chưa làm rõ được đặc trưng của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch.

Theo I.I Pirojnik (1985) “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thế chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức và văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa” [17].

Tháng 6/1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị quốc tế về Thống kê du lịch cũng đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm” [17].

Hội nghị lần thứ 27 (1993) của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra khái niệm du lịch thay thế cho khái niệm năm 1963: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm” [17].

Trong Luật Du lịch Việt Nam (2005), tại điều 4, chương I, định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Có nhiều quan niệm rất khác nhau về du lịch tuy nhiên theo thời gian các quan niệm này dần hoàn thiện. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, quan niệm phổ biến được công nhận rộng rãi là quan niệm được trình bày trong Luật Du lịch Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.


1.1.2. Tài nguyên du lịch

The I.I Pirojnik (1985) “Tài nguyên du lịch là những tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi, phát triển thể lực, tinh lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người mà chúng được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu ở thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế - kĩ thuật cho phép”[17].

Ngô Tất Hổ (2000) thì cho rằng “Tất cả giới tự nhiên và xã hội loài người có sức hấp dẫn khách du lịch, có thể sử dụng cho ngành du lịch, có thể sản sinh ra hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường đều có thể gọi là tài nguyên du lịch”[17].

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005) quy định tại điều 4, chương I, thì “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.

Tuy quan niệm về tài nguyên du lịch có sự khác nhau nhất định giữa các nhà nghiên cứu nhưng cơ bản đều đề cập đến các yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người tạo ra có sức hấp dẫn với du khách.

1.1.3. Sản phẩm du lịch

Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách dựa trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng.

Theo Michael M. Coltman: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình” [17].

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”.


Sản phẩm du lịch có một số đặc điểm cơ bản sau:

- Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng vật thể. Do vậy việc đánh giá, kiểm tra chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn vì thường mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc vào người kinh doanh mà phụ thuộc vào khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kì vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của khách du lịch.

- Sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng đặc biệt của du khách (nhu cầu thưởng thức cái đẹp, nhu cầu tìm hiểu giá trị văn hóa,…). Mặc dù trong cấu thành sản phẩm du lịch có những hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn ở, đi lại của con người nhưng mục đích chính của chuyến đi không nhằm vào ăn, ở mà là để giải trí, tìm hiểu, nâng cao tầm hiểu biết,… Vì vậy cần chú trọng vào nhu cầu của du khách để họ thấy hài lòng.

- Sản phẩm du lịch được tạo ra thường gắn liền với yếu tố tài nguyên nên không thể dịch chuyển được. Không thể mang sản phẩm du lịch đến nơi của du khách mà du khách phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn các nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng các sản phẩm du lịch.

- Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch diễn ra cùng một thời gian và địa điểm với nơi sản xuất ra chúng do đó sản phẩm du lịch không thể cất đi, không thể dự trữ được như mặt hàng khác. Do vậy, việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng quan trọng.

- Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch có tính thời vụ. Đây là hiện tượng lúc thì cung không thể đáp ứng được cầu, lúc thì cầu lại không đáp ứng được cung. Nguyên nhân chính là trong du lịch lượng cung khá ổn định trong thời gian dài còn nhu cầu của khách thì thường xuyên thay đổi dẫn tới sự chênh lệch cung - cầu.


1.1.4. Điểm du lịch

Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch. Về mặt lãnh thổ điểm du lịch có quy mô nhỏ và có sự chênh lệch về diện tích giữa các điểm du lịch. Trên bản đồ các vùng du lịch người ta thể hiện điểm du lịch là những điểm riêng biệt.

Điểm du lịch là nơi tập trung một loại tài nguyên du lịch (tự nhiên, văn hóa

– lịch sử hoặc KT-XH) hoặc một công trình riêng biệt phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ. Thời gian lưu lại của du khách tại điểm du lịch là tương đối ngắn (1-2 ngày) bởi do hạn chế về đối tượng du lịch chỉ trừ một số trường hợp là điểm du lịch với chức năng chữa bệnh, nhà nghỉ,…

Theo điều 4, chương I, khoản 8, Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”.

Cũng theo luật này, thì điểm du lịch được công nhận là điểm du lịch quốc gia khi có đủ các điều kiện, gồm: có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 100 nghìn lượt khách tham quan một năm. Còn các điều kiện để công nhận điểm du lịch địa phương thì thấp hơn, bao gồm: có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 10 nghìn lượt khách tham quan một năm.

Một điểm du lịch tốt cần có môi trường tự nhiên và văn hóa lành mạnh, có các điều kiện đảm bảo dịch vụ tối thiểu cho khách du lịch như khách sạn, thông tin liên lạc, cửa hàng ăn uống, dịch vụ mua sắm, bán hàng lưu niệm,…

Về mặt không gian, các điểm du lịch được kết nối với nhau bằng tuyến du lịch và được tổ chức thuận tiện, khoa học và mang tính kinh tế cao.


1.1.5. Tuyến du lịch

Theo quy định tại khoản 9, điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không”.

Tại điều 25, mục 1, chương IV, quy định điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch như sau:

- Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch quốc gia:

+ Nối các KDL, điểm du lịch, trong đó có các KDL, điểm du lịch quốc gia, có tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế.

+ Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến.

- Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch địa phương:

+ Nối các KDL, điểm du lịch trong phạm vi địa phương.

+ Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến.

Các tuyến du lịch được xem là sản phẩm du lịch đặc biệt dựa vào các điểm hút; các cửa khẩu kinh tế quan trọng; hệ thống đường bộ, đường sắt, đường không, đường thuỷ; hệ thống đô thị; các cơ sở lưu trú cũng như giá trị đặc biệt của các điểm du lịch để hình thành nên các chương trình du lịch theo tuyến du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong vùng, trong nước và quốc tế. Do vậy, có thể xem tuyến du lịch là đơn vị tổ chức không gian du lịch được tạo bởi nhiều điểm du lịch khác nhau về quy mô, chức năng, sự đa dạng của các đối tượng du lịch khác nhau trên một lãnh thổ.

Cơ sở tiền đề cho tuyến du lịch là điểm du lịch và hệ thống giao thông bao gồm tuyến đường sắt, đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không.

Xem tất cả 140 trang.

Ngày đăng: 20/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí