mẹ bồng con, vũ nữ, bút tháp… Đặc biệt, trên trần hang là đôi cánh phượng hoàng giang rộng như đón chào du khách. Không khí trong lành mát rượi.
Hang Phượng Hoàng còn là một điểm di tích của căn cứ địa Bắc Sơn, Võ Nhai nổi tiếng xưa kia. Ngày 27/11/1944, đội Cứu Quốc Quân 75 người do chính trị viên Trần Thị Minh Châu và đồng chí Kì chỉ huy, cùng 373 hộ dân lên hang Phượng Hoàng chống địch khủng bố với vũ khí thô sơ: Súng kíp, mìn lưỡi cày, bẫy đá, nỏ, dáo mác và kết hợp đánh du kích đã gây thiệt hại nặng cho một tiểu đoàn Pháp và tay sai có pháo binh yểm trợ.
Theo con đường lát đá ngoằn ngoèo, suối Mỏ Gà nằm kề chân hang Phượng Hoàng. Suối rộng chừng 10 đến 15m, cao 2 đến 6m, nước trong veo, mát rượi. Hang suối tối om phải có đèn pin mới vào được. Không ai biết hang suối dài bao nhiêu, riêng vài ba trăm mét vào được đã cuốn hút du khách, những tảng đá như giường tiên, cột đá lô nhô phân cách buồng tắm, vũng tắm, bãi sỏi… khiến cho du khách tĩnh tâm, khoan khoái sau giờ leo núi. Cửa hang như miệng một con cá sấu, nhiều hoa lá rủ, dây cuốn hình quả trứng, đá nhấp nhô, thác nước reo gợi thơ nhạc cho du khách qua đây.
Như vậy, khu du lịch Đồng Hỷ - Võ Nhai vừa có loại hình du lịch lễ hội - tâm linh với chùa Hang, động Linh Sơn, vừa có loại hình du lịch văn hoá với khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa, lại vừa có loại hình du lịch lịch sử, danh thắng với hang Phượng Hoàng, rừng Khuôn Mánh, cùng hàng 100 các di tích khác, nếu được khai thác hợp lý, chắc chắn đây sẽ là một tuyến du lịch đầy hấp dẫn đối với du khách khi đến với Thái Nguyên.
2.5. PHỔ YÊN, PHÚ BÌNH
Đây là hai huyện có di tích kiến trúc, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo nhiều nhất tỉnh: Phú Bình: 6 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 5 di tích xếp hạng cấp tỉnh, hàng 100 di tích đang làm hồ sơ đề nghị xếp hạng. Phổ Yên: 1 di tích cấp Quốc gia, 9 di tích cấp tỉnh và rất nhiều di tích có giá trị khác cũng đang
được đề nghị xếp hạng [51]. Điểm đầu tiên mà du khách sẽ tới tham quan trong tuyến du lịch này là đền Lục Giáp thuộc xã Đắc Sơn, huyện Phổ Yên. Xưa kia đền chỉ là một ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của nhân dân vùng Sơn Cốt. Sau này, để tưởng nhớ, ghi nhận công lao của vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh và tướng Lưu Nhân Chú, nhân dân ở đây đã lập đền thờ 2 ông. Đến cuối thế kỉ XV, Đỗ Cận người Thống Thượng thuộc xã Minh Đức (Phổ Yên) đỗ tiến sĩ, được bổ làm Tham Nghị xứ Quảng Nam đã cho thợ giỏi, dùng gỗ tốt đục đẽo, chạm khắc thành khung nhà hoàn chỉnh tại Thanh Hoá rồi mang về dựng, thay thế cho ngôi đền nhỏ, cũ. Đền được nhân dân trong 6 giáp của vùng Sơn Cốt thờ cúng, nên được mang tên đền Lục Giáp.
Đền Lục Giáp nằm trên dải đất rộng bên bờ sông Công thuộc xóm Dương, xã Đắc Sơn, cách huyện lỵ Phổ Yên 3km đường ô tô, đây là nơi có địa thế trên bến dưới thuyền, nhìn ra đồng ruộng phì nhiêu, làng xóm trù phú gợi vẻ nên thơ, yên ả của làng quê đất Việt.
Có thể bạn quan tâm!
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 4
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 5
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 6
- Tình Hình Khách Du Lịch Đến Thái Nguyên Qua Các Năm
- Số Lượng Cơ Sở Lưu Trú Và Công Suất Sử Dụng Buồng, Phòng Của Du Lịch Thái Nguyên
- Xây Dựng Hệ Thống Cơ Sở Hạ Tầng
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Khu vực chính của đền Lục Giáp gồm nhà Tiền tế và Hậu cung, rộng khoảng 136 m2, phía trước đền có sân rộng, giữa sân có bệ để cắm hương hoa. Nhà Tiền tế và Hậu cung đều mang nét chung của kiến trúc đền, miếu, cầu kì nhưng gọn, đẹp, được xây dựng theo kiểu “tiền kẻ, hậu bảy”. Cả 2 nhà Tiền tế và Hậu cung đều làm 3 gian, 2 chái, hiện nay Hậu cung vẫn lợp ngói mũi, bốn góc mái cong vút, các cột đều được làm bằng gỗ lim. Tất cả các đầu trụ, câu đầu, ván lát trước Hậu cung… đều được chạm khắc nổi tinh tế, công phu với các hình long, ly, quy, phượng. Đặc biệt, 2 cánh cửa chính vào Hậu cung được chạm nổi Lưỡng Long chầu nguyệt theo kiểu thời Lê rất đẹp, đạt trình độ mỹ thuật truyền thống tinh xảo. Hàng năm, đền Lục Giáp mở hội vào ngày 15/3 (âm lịch) để tưởng nhớ các danh nhân Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú, Đỗ Cận. Lễ hội có dâng hương, tế lễ, rước kiệu, hát ví…
Sau khi tham quan đền Lục Giáp, du khách sẽ đến với di tích lịch sử cách mạng xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Tổng Tiên Thù (xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên ngày nay là một phần của tổng Tiên Thù xưa) trong những năm 1939 - 1945 được chọn làm ATK II của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc Kì. Nhiều đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng, Xứ uỷ đã ở và làm việc tại đây như: Đồng chí Trường Chinh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, đồng chí Lê Thanh Nghị… Soi Quýt là một bãi ven sông Cầu, được bao bọc bởi quýt, trám, vải. Đây là địa điểm nối Tiên Thù (Phổ Yên) và Vân Xuyên (Hiệp Hoà, Bắc Giang) - nơi đặt trạm liên lạc bí mật của Đảng. Nhà ông Ngô Hải Long được nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Xứ uỷ đi lại, ở và làm việc trong thời kì hoạt động bí mật (1941) như đồng chí Trường Chinh - Tổng bí thư Đảng, Hoàng Quốc Việt - Thường vụ Trung ương Đảng, các đồng chí trong Xứ uỷ: Nguyễn Hải Lục, Nguyễn Trọng Tỉnh… Nhà bà Hoàng Thị Úc là địa điểm đặt cơ sở in báo “Cờ giải phóng” của xứ uỷ 1942. Nhà bà Lưu Thị Phan ở Cổ Pháp là địa điểm bí mật đưa đón cán bộ, phát hành báo chí của Trung ương Đảng, nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng của Trung ương do đồng chí Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt chủ trì, đồng thời cũng là nơi diễn ra những cuộc họp, học tập, phổ biến nghị quyết Hội nghị Trung ương lần VIII tháng 5/1941. Những người dân của ATK II đã không quản ngại hi sinh cả tính mạng, cuộc sống, gia đình để bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc Kì. Đêm 20 rạng 21/11/1942, đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng, tổ chức lớp huấn luyện ở Vân Xuyên (Hoàng Vân, Hiệp Hoà, Bắc Giang) bị giặc Pháp và tay sai vây bắt, đồng chí đã được hai bố con ông lão đánh cá đưa sang bên kia sông Cầu thuộc đất Tiên Thù. Tại đây đồng chí được Nguyễn Văn Tâm con rể và Ngô Hải Long con trai của ông Ngô Văn Luân bảo vệ an toàn. Ông Ngô Văn Luân bị địch bắt giam tại nhà lao Thái Nguyên, bị tra tấn dã man nhưng nhất định không khai báo và đã anh dũng hi sinh. Ngoài ra ở Phổ Yên còn rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá, và danh thắng
khác như: Đền Giá (xã Đông Cao), đền Đồng Thụ (xã Thuận Thành), chùa Tây Phúc (xã Tân Phú), thác Cô Tiên, hồ Suối Lạnh (xã Thành Công)… Chắc chắn sẽ là nguồn tài nguyên phong phú cho du lịch Thái Nguyên.
Cụm di tích lịch sử Kha Sơn huyện Phú Bình. Gồm các điểm: Chùa Mai Sơn, làng Mai Sơn là nơi đặt cơ sở in ấn của Xứ uỷ Bắc Kì trong thời kì vận động giải phóng dân tộc. Chùa Mai Sơn là một ngôi chùa thờ Phật, có từ xa xưa. Trong chùa có 12 cột đá được đẽo gọt chau chuốt, cầu kì có chung niên đại 1737. Trong quá trình khai hoang, lập làng, cơ cấu làng xã Việt Nam được hình thành, làng Mai Sơn cũng được ra đời trong hoàn cảnh đó. Trước 1943, cơ sở in ấn của Xứ uỷ Bắc Kì đặt tại nhà bà Hoàng Thị Úc thuộc tổng Tiên Thù, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Đến đầu 1943, cơ sở in chuyển đến xã Kha Sơn Hạ, đặt ở nhà ông Viễn, sau chuyển tới nhà cụ Chèo, nhà đồng chí Bình Sơn, nhà ông Toàn Thể, cuối cùng đến chùa Mai Sơn. Tại cơ sở in này, Đảng ta cho ra đời nhiều tài liệu, sách, báo quan trọng. Đồng thời đây còn là nơi thành lập mặt trận Việt Minh tổng Phương Sơn, nơi diễn ra nhiều hội nghị, cuộc họp quan trọng của Xứ uỷ Bắc Kì. Ngày 3 và 4/10/1944, địch đã phát hiện ra “nhà in đặc biệt khu” của Xứ uỷ ở chùa. Chúng tổ chức bao vây, lục soát ở các xã Kha Sơn Thượng, Kha Sơn Hạ, Mai Sơn và bắt nhiều quần chúng cách mạng.
Xứ uỷ Bắc Kì còn đặt trạm “Liên lạc số 1” tại rừng Mấn, đây là nơi kín đáo, dễ cơ động, thuận lợi cho hoạt động bí mật. Năm 1944, lớp huấn luyện quân sự đào tạo tự vệ cho nhà in và các xã đã được mở tại đây. Do ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Hiệp Hoà (Bắc Giang) từ 1943 và hoạt động in ấn tài liệu tuyên truyền của Xứ uỷ Bắc Kì tại nhà ông Cao Nhật, đã hình thành ở đây tổ trung kiên cách mạng (tháng 4/1943), tiền thân của Chi bộ Đảng đầu tiên ở Phú Bình. Đến năm 1944, tại Kha Sơn Hạ, Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Phú Bình được thành lập. Ngày 13/3/1945, chi bộ Phú Bình nhận được chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” do đồng chí Lê Thanh Nghị
truyền đạt, 8h sáng 14/3/1945, chi bộ Kha Sơn Hạ nhanh chóng phát động dân chúng xã đứng lên cướp chính quyền thắng lợi. Đình Kha Sơn Hạ, chùa Làng Ca còn là nơi cất giấu tài liệu của Xứ uỷ Bắc Kì thời kì 1943-1945. Ngày 14/3/1945, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Thế Sơn, đồng chí Nguyễn Thế Đạt huy động lực lượng, bắt tên phó hội Lương Đức Oai, thành lập toà án cách mạng, xử tên Oai ở cầu Ngói, đồng thời tịch thu ấn triện của Lý trưởng, thành lập chính quyền cách mạng. Đình Kha Sơn Thượng là nơi hoạt động và cất giữ tài liệu của Xứ uỷ Bắc Kì từ 1939 đến 1945. Các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Hà Thị Quế, Ngô Thế Sơn thường qua lại vùng này để chỉ đạo phong trào cách mạng.
Trong tuyến du lịch này, ngoài các địa điểm nêu trên, du khách còn được chiêm ngưỡng những ngôi đền, chùa, đình uy nghi, cổ kính mà không kém phần tao nhã của Phú Bình, đó là: Đình Phương Độ xã Xuân Phương. Các dòng họ Dương Quang, Dương Hữu… là những người đầu tiên đến lập làng Phương Độ và dựng đình vào thế kỉ XV. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX”
[70] thì làng Phương Độ thuộc tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên (nay là xã Xuân Phương, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên). Đầu tiên đình được dựng ở ngoài bãi nổi do thiên tai, mưa lũ nên phải di chuyển nhiều lần. Cuối cùng thì chuyển vào giữa làng Phương Độ ngày nay.
Trong những năm đầu cách mạng tháng Tám, đình là nơi hội họp, nghe cán bộ tuyên truyền cách mạng. Tháng 8 năm 1945, đình là nơi tổ chức lễ tế cờ chào mừng cách mạng Tháng 8 thành công. Năm 1946, ông Nguyễn Văn Tố, Trần Huy Liệu đã lấy đình làm địa điểm tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ. Cuộc vận động toàn dân xoá nạn mù chữ, mở rộng phong trào “Bình dân học vụ”, “tuần lễ vàng”… cũng được tổ chức tại đây, nhân dân quanh vùng đã góp tiền của, vàng, bạc ủng hộ chính quyền các mạng. Trong kháng
chiến chống Mĩ, đình là nơi chứng kiến hàng trăm con em nhân dân quanh vùng lên đường tòng quân, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Đình Phương Độ nằm ở nơi cảnh quan đẹp, “trên bến, dưới thuyền”, cách dòng sông Cầu 50m về phía Đông, xung quanh có nhiều cây cổ thụ, toả bóng xum xuê. Hầu hết các vật liệu làm đình đều bằng gỗ lim chuyển từ Thanh Hóa về, nhiều thế kỉ trôi qua vẫn bền và giữ được màu đen bóng. Ngôi đình kiến trúc phức tạp nhưng tao nhã và chắc chắn. Nóc đình được trang trí theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt” đạt trình độ nghệ thuật cao, ở trong đình, trên, dưới các đầu trụ, câu đầu và các xà ngang, xà dọc đều được trang trí hoa văn, chạm trổ các bộ “Tứ linh” (long, ly, quy, phượng) rất công phu và khéo léo. Các đồ vật trong đình như: Kiệu, bát hương, hương án… đều được trang trí và chạm trổ những nét hoa văn tinh tế.
Đình Phương Độ là một di tích mang đặc trưng của kiến trúc nghệ thuật thời Lê lớn nhất tỉnh Thái Nguyên còn lại đến ngày nay. Gian chính của đình là nơi đặt điện thờ gồm: Thượng Hạ cung đình gồm một bàn hương án trang trọng, lộng lẫy, phía trong nội cung đặt tượng đức thánh Dương Tự Minh bằng gỗ, hình nổi. Bên tả và bên hữu của bàn hương án là bộ Hạc đứng trên lưng rùa thể hiện sức mạnh và chiến thắng. Trong gian chính có các câu đối, các bức tranh, bộ bát bửu, kiệu được treo hoặc đặt ở vị trí hài hoà, cân đối mà vẫn giữ sắc thái uy nghiêm, ngưỡng mộ đối với vị Thành Hoàng. Phía sau đình, cách một sân rộng là chùa, với kiến trúc và trang trí nghệ thuật đơn giản. Trong đình, chùa còn một số hiện vật có giá trị như: 1 sắc phong và 2 bức Đại tự thờ Dương Tự Minh thời Khải Định, tượng nổi Dương Tự Minh thời Nguyễn… Hàng năm, nhân dân Phương Độ mở hội lễ vào rằm tháng Giêng và 10/10 thu hút hàng vạn khách thập phương tới xem và tham gia rước kiệu, múa lân, tế lễ, chọi gà và vui chơi văn nghệ…
Đình Hộ Lệnh thuộc xã Điềm Thuỵ. Làng Hộ Lệnh thuộc thôn Hộ Lệnh, xã
Triều Dương, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình. Theo “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX” [70] thì làng Hộ Lệnh thuộc xã Triều Dương, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên. Đình được dựng lên để tôn thờ vị thành hoàng làng là Thần Cao Sơn, Quý Minh và Tam Giang, họ là những thuộc tướng phò giúp vua Hùng Vương đánh giặc giữ nước. Ngoài ra, đình Hộ Lệnh còn thờ thần hoàng làng - Anh hùng dân tộc Dương Tự Minh và các hậu thần. Bên cạnh đó, đình Hộ Lệnh còn là nơi phục vụ đời sống tinh thần của người dân, là trung tâm sinh hoạt văn hoá của làng xã, nơi cúng tế các vị thần thành hoàng xã, xử án, phạt vạ kẻ vi phạm luật lệ làng… Đình Hộ Lệnh được các nghệ nhân xưa thể hiện kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật trang trí, điêu khắc một cách tinh xảo đến từng chi tiết: Vì kèo, cổn lá gió, hoành, đầu dư, các xà… được chạm tỉ mỉ, công phu với nhiều đề tài sinh động linh thiêng trong tín ngưỡng văn hoá của người Việt, có phong cách đặc sắc, tiêu biểu cho kiến trúc nghệ thuật thời Lê. Đình Hộ Lệnh được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, trên một địa thế cao ở trung tâm làng. Từ xa nhìn lại thấy 4 đầu đao của ngôi đình cong vút, uyển chuyển, thanh thoát và chắc chắn. Tại Đại đình có kiến trúc nóc kiểu dáng mũi thuyền, bờ dải được đắp gờ, mái lợp ngói vẩy rồng, thiết kế kiểu tàu đao, lá mái. Phần hậu cung đình có kiến trúc kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái, có chỗ lấy ánh sáng tự nhiên. Mái đình kết cấu bởi 8 bộ vì kèo liên kết bằng loại gỗ đinh, 2 bộ vì chính gian giữa được thiết kế theo kiểu chồng rường “Thượng tam, hạ tứ”. Cách bài trí trong đình Hộ Lệnh theo một bố cục rất trang trọng, bắt đầu từ cửa đình vào gian chính giữa rồi tiếp nối với hậu cung là nơi thờ chính của đình. Từ cửa võng đình tới nội thất được trang trí chạm nổi từng ô vuông có bức đại từ “Thánh cung vạn tuế”, điện thờ có bắc sàn, phía trước có hương án uy nghi. Tại chính điện thờ đặt tượng nổi chân dung Đức Thánh, nét mặt phương phi.
Chùa Hộ Lệnh được xây dựng liền kề đình, tạo nên một không gian linh thiêng, trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng lâu đời, gắn bó mật thiết với cuộc sống nhân dân nơi đây.
Ngày nay đình Hộ Lệnh, chùa Hộ Lệnh còn bảo lưu nhiều hiện vật có giá trị như: Cuốn ngọc phả chữ Hán sao lục vào năm Khải Định thứ 3 (1918) ghi lại sự tích các vị thần được thờ ở đình. Bia đá cổ nhất “Hậu thần bi kí”, niên đại Lê Vĩnh Hựu năm thứ 4 (1738). Ngoài ra còn 3 bia khác có niên đại thời Nguyễn, chép tên những người đóng góp công đức sửa chữa đình, 2 bức hoành phi, 2 câu đối… Có chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 14 -1862, 26 bia đá ghi công đức thời Nguyễn, 35 pho tượng và các đồ thờ cúng khác… Lễ hội đình được tổ chức vào mùng 4 Tết để cầu phúc, cầu tài. Sau lễ dâng hương, có các trò chơi truyền thống: Ngày 2/2 âm lịch, có lễ “Hạ điền” (xuống đồng đầu năm cầu cho mùa màng bội thu), ngày 7/7 âm lịch có lễ “Thượng điền” (là một nghi lễ nông nghiệp thực hiện sau khi thu hoạch). Ngày 20/10 âm lịch hàng năm là lễ “làng ăn mày lão” (tức lễ “lên lão làng” cho nam giới từ 50 đến 60 tuổi). Ngày hội lớn nhất hàng năm được tổ chức vào 30/10 âm lịch. Dân làng Hộ Lệnh từ 50 tuổi trở xuống đóng góp gạo, thịt, tiền mang đến đình mời các cụ từ 50 tuổi trở lên đến dự.
Đình Xuân La thuộc xã Xuân Phương: Đình chủ yếu được làm bằng gỗ, mang rõ nét phong cách nghệ thuật điêu khắc gỗ đặc trưng của đình làng thế kỉ XVI - XVII. Đình nằm trên một quả đồi ở giữa làng Xuân La. Trước đây làng thuộc tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên. Sau cách mạng tháng 8/1945, Xuân La là một làng của xã Xuân Phương, huyện Phú Bình. Đình Xuân La được xây dựng để thờ vị anh hùng Dương Tự Minh. Đình còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử: Tháng 8/1945, làng Xuân La làm lễ ở đình để chào mừng ban giải phóng, tổ chức tập luyện quân sự, vận động “Tuần lễ vàng”. Trong kháng chiến chống Pháp, đình là bệnh viện điều trị cho cán bộ chiến sĩ của Liên khu Việt Bắc, là nơi sơ tán và dạy học của trường trung học Hàn