Quyến đã thực sự là những dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của vùng đất Thái Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung.
Từ 1939 đến trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị, và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kì thường xuyên qua lại, hoạt động, phát triển lực lượng cách mạng ở Thái Nguyên. Vùng Tiên Phong (Phổ Yên), Kha Sơn (Phú Bình) được Trung ương chọn và xây dựng thành An toàn khu II (ATK II).
Tháng 9/1941, lực lượng tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam - đội Cứu Quốc Quân II ra đời tại rừng Khuôn Mánh (Tràng Xá, Võ Nhai). Năm 1944, chiến khu Nguyễn Huệ được hình thành ở Yên Lãng - Đại Từ, nhằm xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cách mạng Tháng 8 năm 1945. Ngày 15/5/1945 tại Định Biên Thượng - Định Hoá, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, cả dân tộc chưa kịp hưởng niềm vui độc lập đã phải bước vào một cuộc chiến đấu mới, chống lại sự tái chiếm của thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám… Do có vị trí chiến lược quan trọng “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, lại nằm sát với Tân Trào - Tuyên Quang - thủ đô của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, Thái Nguyên có đủ điều kiện “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, (đồng bào các dân tộc Thái Nguyên có truyền thống yêu nước, một lòng, một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng, hết lòng che chở, đùm bọc cán bộ…) nên Định Hoá - Thái Nguyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng chọn làm An Toàn Khu Trung ương (ATK). ATK Định Hoá - Thái Nguyên trở thành nơi chỉ đạo và chỉ huy kháng chiến chống Pháp của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh và các cơ quan, các Tổng cục. Các quyết sách lớn của Đảng, Chính phủ phần lớn đều ra đời từ đây. Ví dụ: Hạ quyết tâm tiêu diệt địch tiến công lên Việt Bắc, quyết định
mở các chiến dịch nhỏ ở Đông Bắc và Tây Bắc, hạ quyết tâm mở chiến dịch giải phóng đường Biên giới, quyết định mở các chiến dịch: Trung Du, Đường số 18, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954… Các sắc lệnh, quyết định, thông tư như: Phong quân hàm cho một loạt
tướng lĩnh trong Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam, thành lập Đảng uỷ Mặt trận và Bộ chỉ huy chiến dịch Biên giới… đều ra đời trong thời gian các cơ quan lãnh đạo cao nhất của ta có mặt tại Định Hoá …
Cũng từ ATK Định Hoá, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh thường xuyên nhận được tin tức về tình hình kháng chiến, kiến quốc ở các địa phương để từ đó có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo kịp thời.
ATK Định Hoá cũng là một trong những nơi nhân dân được hưởng chế độ dân chủ mới đầu tiên trong cả nước, được chia ruộng đất, được giảm tô, giảm tức, văn hoá, giáo dục, y tế được quan tâm … Các hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ cũng diễn ra chủ yếu trên đất Thái Nguyên. Bác gặp Paul-Mus, đại diện Cao uỷ Pháp ở thị xã Thái Nguyên. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Pháp do Léo Figuères dẫn đầu, các đoàn cố vấn Trung Quốc, đoàn điện ảnh Liên Xô (cũ) và nhà đạo diễn nổi tiếng Karmen, nhiều nhà ngoại giao, nhà báo quốc tế… được Bác Hồ tiếp tại Định Hoá. Các đồng chí lãnh đạo Đảng các nước bạn như chủ tịch Xuphanuvông, đồng chí Cay Xỏn - Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng Lào, đồng chí Sơn Ngọc Minh - Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia… trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã ở và làm việc nhiều ngày trên đất Đại Từ - Thái Nguyên.
Có thể bạn quan tâm!
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 1
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 2
- Địa Danh Thái Nguyên Qua Các Thời Kỳ Lịch Sử
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 5
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 6
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 7
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Có thể nói, phần lớn các cuộc họp của ban Thường vụ Trung ương Đảng để quyết định những vấn đề hệ trọng, có lên quan đến vận mệnh quốc gia, có liên quan đến các vấn đề về quốc kế dân sinh nói chung, đều diễn ra trên đất Định Hoá - Thái Nguyên. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, Thái Nguyên đã đáp ứng trọn vẹn yêu cầu của Đảng, bảo vệ an toàn tới mức tuyệt đối các cơ quan lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954.
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại trên một nửa đất nước, Thái Nguyên lại đi tiên phong trên mặt trận chống phong kiến, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo ra những nhân tố cơ bản về giá trị tinh thần và lực lượng vật chất. Đồng thời, Thái Nguyên cùng với cả miền Bắc, có nhiệm vụ của một hậu phương lớn, chi viện cho cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam để thống nhất đất nước. Từ năm 1954 trở đi, thị xã Thái Nguyên không chỉ là nơi trao đổi hàng hoá của nhân dân trong tỉnh, mà còn là nơi cung cấp nhiều nguồn hàng cho các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, đồng thời cũng là nơi trung chuyển hàng hoá giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm… Do đó, sản xuất công, thương nghiệp của Thái Nguyên đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, tài chính của chiến khu Việt Bắc.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thái Nguyên là thành phố công nghiệp luyện kim và cơ sở sản xuất cơ khí lớn nhất miền Bắc, nằm sâu trong nội địa, là hậu phương của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Khi cảng biển Hải Phòng bị đế quốc Mỹ phong toả, Thái Nguyên trở thành cảng nổi của miền Bắc, tiếp nhận hàng viện trợ (lương thực, nhiên liệu, vũ khí, đạn dược…) của bạn bè quốc tế cho nhân dân ta đánh Mỹ.
Do có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quân sự, nên mỗi khi kẻ thù xâm lược nước ta, chúng đều có âm mưu chiếm giữ hoặc đánh phá ác liệt vị trí then chốt này bằng cả thủ đoạn quân sự tàn bạo cùng những âm mưu thâm độc về chính trị, kinh tế. Trong hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, nhân dân Thái Nguyên vừa phải đẩy mạnh sản xuất, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của tỉnh nhà, vừa phải chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, lại vừa phải tăng cường sự chi viện cho chiến trường miền Nam. Với những nhiệm vụ nặng nề như vậy,
nhân dân các dân tộc Thái Nguyên phát huy truyền thống của quê hương căn cứ địa cách mạng, thủ đô kháng chiến đã hoàn thành xuất sắc cả 3 nhiệm vụ to lớn ấy, góp phần cùng nhân dân cả nước làm nên Đại thắng Mùa xuân 1975.
Từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đến nay, Thái Nguyên vẫn được coi là khu vực có vị trí chiến lược về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá của vùng Việt Bắc cũng như của cả nước. Thái Nguyên vẫn là địa bàn xung yếu của khu vực Bắc Bộ, là cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.
Tiểu kết chương 1
Từ những nét khái quát về vị trí địa lý, tình hình dân cư và truyền thống chống ngoại xâm của Thái Nguyên, ta thấy: Đây là vùng đất tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, vì vậy Thái Nguyên là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, tạo nên một bức tranh văn hoá độc đáo. Đồng thời, với địa thế “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, từng là “phên giậu” che chở cho kinh thành Thăng Long xưa, là cửa ngõ của vùng đại ngàn Việt Bắc, hàng nghìn năm qua, Thái Nguyên đã trở thành căn cứ địa vững chắc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc. Với một bề dày lịch sử, văn hoá, danh thắng và tiềm năng kinh tế, tri thức lớn, Thái Nguyên trở thành một vùng đất nhiều tiềm năng cho du lịch văn hoá, du lịch lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch lễ hội - tâm linh và du lịch tham quan, nghỉ dưỡng cuối tuần… Những tiềm năng đó đan xen, hoà quyện vào nhau nếu được khai thác tốt sẽ hình thành những tour, tuyến du lịch hấp dẫn đối với du khách, đem lại một nguồn lợi nhuận không nhỏ cho nền kinh tế địa phương.
CHƯƠNG 2.
TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUYÊN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ
Với địa thế “giao lưu và hội tụ”, Thái Nguyên nằm ở trung tâm vùng Việt Bắc, có vị trí thuận lợi gần như là đầu mối trung tâm toả đi các tỉnh Việt Bắc chiến khu xưa. Từng là thủ phủ của Khu Tự trị phía Bắc, nơi ra đời của khu công nghiệp gang thép đầu tiên của Tổ quốc, đồng thời, là nơi quy tụ của 6 trường đại học là thành viên của Đại học Thái Nguyên, nơi tồn tại của gần 20 trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, và Dạy nghề. Tỉnh Thái Nguyên đã trở thành trung tâm giáo dục, nơi đào tạo nguồn cán bộ khoa học kĩ thuật cho các tỉnh trung du miền núi Việt Bắc và Tây Bắc.
Thái Nguyên được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, từ ngàn xưa những chứng tích về nền văn hoá cổ nhất vùng Đông Nam Á được khẳng định bởi di chỉ khảo cổ học tại Thần Sa, Võ Nhai. Thái Nguyên là quê hương của người anh hùng dân tộc Dương Tự Minh - Người có công dẹp yên bờ cõi phía Bắc trong nhiều năm. Thái Nguyên còn là nơi có di tích núi Văn, núi Võ gắn liền với danh tiếng nghĩa quân Lam Sơn - Lưu Nhân Chú, người đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng Ải Chi Lăng.
Về với Thái Nguyên cũng chính là về với cội nguồn vinh quang của ATK Trung ương, vẫn còn đây với bao địa danh nổi tiếng: Phú Đình, Điềm Mặc, Tỉn Keo, Khuôn Tát,… Nơi Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng, Chính phủ đã sống, làm việc và lãnh đạo cách mạng trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954.
Một nền văn hoá sâu bền, đậm đà bản sắc dân tộc trải theo chiều dài lịch sử còn in hằn trong những nét chạm khắc tinh xảo ở đình Phương Độ, đình Hộ Lệnh, đình Xuân La (Phú Bình), hay những vần thơ trên đá ở Chùa Hang (Đồng
Hỷ). Bản sắc dân tộc của các dân tộc quần cư ở Thái Nguyên cũng được phản ánh sâu đậm qua các điệu hát Sli, hát Lượn, lễ hội Lồng Tồng… Địa hình 2/3 núi non cũng tạo nét đặc sắc cho Thái Nguyên, với núi rừng hùng vĩ, nhiều hang động, thác ghềnh đẹp như tranh bên những dòng sông thơ mộng, hiền hoà cùng hàng loạt đầm hồ rộng mênh mông đã trở thành những điểm đến hấp dẫn với du khách đó là: Hang Phượng Hoàng lung linh kì vĩ, suối Mỏ Gà róc rách thuyết tình yêu, chùa Hang sừng sững muôn vàn nhũ đá kì dị, con sông Cầu như nét vẽ của thiên nhiên làm cho thành phố Thép thêm thơ mộng, Hồ Núi Cốc, Hồ Bảo Linh, Thác Mưa Rơi… tất cả đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà giữa thiên nhiên và con người. Trên miền đất hội tụ này du khách còn được chứng kiến nhiều nét văn hoá đa dạng, phong phú: Từ kiến trúc, ẩm thực đến y phục và cả phong tục tập quán về thờ cúng, ma chay, cưới hỏi… của từng dân tộc. Những sinh hoạt văn nghệ dân gian cũng thật phong phú với hát Then bằng cây đàn tính của dân tộc Tày, Nùng, hát “Gầu phềnh” (hát giao duyên), “Gầu xống” (hát cưới xin), “Gầu tú ở” (hát cúng ma)… của người Mông. Hát “sọng cô” của người Sán Dìu, hát “sình ca” của người Sán Chay… Và những điệu vũ dân gian truyền thống, uyển chuyển, nhịp nhàng nhưng khoẻ khoắn và hết sức độc đáo của từng dân tộc.
Có nhiều nhà nghiên cứu về du lịch đã tìm hiểu du lịch Thái Nguyên với tư cách là một trong những điểm du lịch quan trọng của tiểu vùng du lịch Đông Bắc. Những nghiên cứu đó đều thống nhất ở nhận định cho rằng: Điểm nhấn của du lịch Thái Nguyên nói chung, là sự kết hợp giữa nhiều loại hình du lịch hết sức phong phú. Đặc điểm riêng của du lịch Thái Nguyên khác đối với các điểm du lịch khác là chi phí thấp, thích hợp cho những đoàn có số lượng lớn (sinh viên, cán bộ hưu trí... ) và có nhiều hình thức để du khách lựa chọn, đó là: Du lịch văn hoá, du lịch lễ hội - tâm linh, du lịch lịch sử, du lịch tham quan nghỉ dưỡng cuối tuần… Những loại hình du lịch đó có ở khắp các huyện, thị trong toàn tỉnh: Thành phố Thái Nguyên, Đại Từ, Phú Lương, Định Hoá, Đồng Hỷ,
Võ Nhai, Phổ Yên, Phú Bình, đưa Thái Nguyên trở thành một vùng đất đầy tiềm năng cho phát triển du lịch.
2.1. THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh, nằm trải dọc bên bờ sông Cầu. Thành phố Thái Nguyên được xác định là trung tâm du lịch của tỉnh với đầy đủ các loại hình sản phẩm du lịch. Các điểm tham quan chính sẽ là:
Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam: Đây là một địa chỉ du lịch văn hoá độc đáo của Thái Nguyên. Bảo tàng toạ lạc giữa trung tâm thành phố, trên một vùng đất rộng, phía sau là một khu vườn, nhiều cây cối cổ thụ tạo phong cảnh râm mát. Trước đây, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam là một bảo tàng tổng hợp về truyền thống văn hoá và cách mạng của Việt Bắc, sau này, khi không còn Khu Tự trị nữa, bảo tàng được chuyển đổi chức năng thành một bảo tàng dân tộc học. Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam hiện đang lưu giữ và trưng bày hơn 10.000 tài liệu, hiện vật của 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài gian đại sảnh, bảo tàng có 5 phòng trưng bày chính giới thiệu văn hoá của 54 dân tộc Việt Nam chia theo 5 nhóm ngôn ngữ: Việt - Mường, Tày - Thái, Hmông - Dao, Môn - Khơ me, Hán - Hoa. Cho dù ở Hà Nội đã có bảo tàng Quốc gia về dân tộc học đang ngày càng hấp dẫn du khách, nhưng để hiểu được cái đặc sắc của nền văn hoá một quốc gia đa dân tộc thì không đâu bằng ở Thái Nguyên. Sắc thái phong phú, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc đã tạo ra cho bảo tàng này một sự hấp dẫn hiếm có và trở thành một địa chỉ du lịch văn hoá độc đáo mà không nơi nào có được. Chính vì vậy, mỗi năm, bảo tàng đón từ 40.000 đến 50.000 lượt khách tham quan. Thăm bảo tàng, ta dễ dàng cảm nhận được những nét đại cương về tộc người, về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và đời sống xã hội của 54 dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, làm thoả lòng mong muốn tìm hiểu, khám phá của du khách. Ngày nay xu hướng mở cửa, hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, làm cho
nền văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một. Việc nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với thế hệ trẻ là điều hết sức cần thiết. Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam đã góp phần tích cực trong công cuộc chấn hưng nền văn hoá dân tộc.
Bên cạnh loại hình du lịch văn hoá, đến với khu du lịch trung tâm thành phố Thái Nguyên, du khách còn được tham gia loại hình du lịch lịch sử với đền thờ Đội Cấn thuộc phường Hoàng Văn Thụ. Đội Cấn tên thật là Trịnh Văn Đạt, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) [10, tr.44]. Ông cùng với Lương Ngọc Quyến lãnh đạo binh lính Thái Nguyên khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực dân Pháp vào đêm 30 rạng ngày 31/8/1917. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong thời cận đại lịch sử Việt Nam. Nghĩa quân làm chủ được tỉnh lỵ Thái Nguyên, đề ra khẩu hiệu: Nam binh phục quốc, tuyên bố Thái Nguyên độc lập và đặt quốc hiệu là Đại Hùng, ra cương lĩnh đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập tự do cho đất nước [10, tr.46,47]. Cuộc khởi nghĩa đã làm rung động nước Pháp và ảnh hưởng tới tận các xứ thuộc địa xa xôi của Pháp. Khởi nghĩa Thái Nguyên và tên tuổi của Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến là những nét son trong trang sử hào hùng của Thái Nguyên nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung. Đền thờ ông được nhân dân địa phương lập trên một quả đồi, với kiến trúc truyền thống của đền chùa Việt Nam theo kiểu chữ đinh hình chuôi vồ, có tiền đường và hậu cung. Chân bậc thang, cạnh lối đi lên đền là một bia lớn ghi thân thế, sự nghiệp của Đội Cấn, trước cửa đền là một bia đá ghi lời hịch của những người lãnh đạo khởi nghĩa.
Du lịch lễ hội - Tâm linh của thành phố Thái Nguyên là chùa Phủ Liễn (tên chữ là Phù Chân Tự). Chùa được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX tại trung tâm phường Hoàng Văn Thụ, theo lối kiến trúc cổ, có Tam bảo, Điện mẫu, nhà tổ, tháp cổ, có tiếng là rất linh thiêng. Hàng tháng, vào dịp mùng một và rằm,