các nghề thủ công. Cộng đồng người Kinh ở Thái Nguyên được hình thành từ sớm, ổn định qua nhiều thế kỷ đã giúp người Kinh ở các vùng quê vẫn giữ được sắc thái văn hoá của người Kinh miền xuôi, ví dụ như cưới xin vẫn tuân thủ theo trình tự: Dạm ngõ, ăn hỏi, cưới…
Dân tộc Tày chiếm 10,15% dân số (Bảng 1.1). Người Tày tiếp thu yếu tố ngôn ngữ, văn hoá của các dân tộc khác để phát triển ngôn ngữ của mình ngày càng phong phú. Đặc biệt người Tày có quan hệ gần gũi với người Nùng, Cao Lan, Sán Chí, bởi vì họ có sự tương đồng về ngôn ngữ, văn hoá. Địa bàn cư trú của người Tày rộng khắp trong toàn tỉnh, song chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng cao như: Định Hoá, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai (Bảng 1.2). Ngoài việc trồng lúa, người Tày còn trồng rất nhiều ngô, khoai, sắn để nâng cao đời sống. Người Tày còn có các nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt vải. Vào mùa xuân từ mùng 1 tháng giêng trở đi, người Tày ở Thái Nguyên thường tổ chức lễ hội Lồng Tồng (lễ hội xuống đồng), với mục đích cầu cho mùa màng tốt tươi, trời đất yên hoà, người an vật thịnh. Trong lễ hội thường có các trò chơi dân gian như ném còn, đánh du, đánh quay... Cũng trong lễ hội Lồng Tồng hoặc trong các chợ phiên, thanh niên nam nữ thường biểu lộ tình cảm của mình qua những điệu hát Lượn, Phong slư. Bên cạnh đó người Tày ở Thái Nguyên còn có những điệu hát then, thơ lẩu, các điệu vũ, điệu múa võ thuật chủ yếu diễn ra trong sinh hoạt tín ngưỡng hoặc hội hè, đình đám…
Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên chiếm 5,22% dân số toàn tỉnh (Bảng 1.2), người Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm vi cư trú của người Nùng gần như người Tày, ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh, nhưng nhiều nhất là ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Người Nùng sống chủ yếu bằng trồng trọt và chăn nuôi. Người Nùng ở Thái Nguyên cũng có lễ cấp sắc, nhưng không bắt buộc. Lễ cấp sắc của người Nùng ở xã Động Đạt - Phú Lương có hai bậc là tiểu tao và đại tao. Tiểu tao làm một đêm, lễ vật gồm có: Một thủ
lợn, một đến hai chai rượu, khách mời là anh em trong họ, người được cấp sắc phải ngồi trong màn đọc sách trong 49 ngày, kiêng không đến chỗ bẩn thỉu. Lễ đại tao làm trong một ngày, một đêm, lễ vật gồm có: Một con lợn, mười con gà, mười chai rượu, ba thầy cúng, người được cấp sắc mặc áo cà sa mới. Về mặt xã hội, những người đã qua lễ cấp sắc được tôn trọng hơn. Ngoài ra việc cấp sắc còn mang ý nghĩa làm “Danh giá cửa nhà”…
Dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên chiếm 2,79% dân số toàn tỉnh, chủ yếu sống ở Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Lương (Bảng 1.1, 1.2). Cũng giống như các dân tộc Tày, Nùng, Dao… sinh sống trên đất Thái Nguyên, người Sán Dìu đã biết dựa vào thiên nhiên, khai thác tự nhiên để duy trì cuộc sống của mình. Nguồn sống chính của đại đa số các gia đình người Sán Dìu ở Thái Nguyên là trồng các loại cây lương thực, chủ yếu là lúa. Ngoài ra chăn nuôi, thủ công nghiệp của người Sán Dìu cũng khá phát triển. Người Sán Dìu thường chỉ làm lễ cấp sắc cho người đã có vợ (có nơi còn cấp sắc cho cả phụ nữ là vợ thầy cúng hoặc những người không có con). Lễ cấp sắc của người Sán Dìu khác với người Nùng, có ba cấp: Cấp thứ nhất là pháp sư, người được cấp sắc có quyền hạn thấp, chỉ được cầu khấn, trả lễ thông thường, được thay tên đệm, gọi theo tên mới. Sau đó muốn được cấp sắc ở cấp cao hơn, thì phải lấy điệp tử do Phan chủ thay mặt Thiên Đình cấp cho các đệ tử qua lễ Đại phàn. Cấp thứ hai là Chức sư, được cấp ấn chức sư và được khắc họ tên của thầy vào ấn. Cấp thứ ba là Thứ gia tổng xuyến, chức này phải có thời gian hành pháp lâu năm. Một trong những địa phương còn giữ gìn gần như nguyên vẹn lễ cấp sắc của người Sán Dìu là làng Thông Nhãn, xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ. Ngoài ra, người Sán Dìu còn giữ được nhiều phong tục, tập quán cổ truyền như: Lễ cưới hỏi diễn ra theo trình tự: Xin lá số, lễ xem mặt, lễ ăn hỏi, lễ sang bạc, lễ chọn ngày cưới, lễ báo ngày cưới… Tang ma theo các nghi lễ: Lễ tắm rửa cho người chết, lễ khâm liệm, lễ nhập quan, lễ mở đường cho người chết, lễ trao nhà táng…
Dân tộc Sán Chay chiếm 2,79% dân số trong toàn tỉnh, chủ yếu sống ở các huyện Phú Lương, Định Hoá, Đại Từ (Bảng 1.1, 1.2). Trong số các loại cây lương thực người Sán Chay canh tác thì lúa, ngô, sắn là những loại cây chủ đạo. Những gia đình tương đối khá giả có thể trồng bông, dệt vải. Tập quán cưới xin của người Sán Chay đơn giản hơn người Sán Dìu, chỉ gồm lễ dạm hỏi, lễ cưới và đón dâu, trong lễ cưới cũng có hát sình ca hoặc sọng cô ( là kiểu hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái). Các trò chơi dân gian giải trí của người Sán Chay là đánh cầu, đánh quay, trồng chuối, vặn rau cải… Một số nơi còn tổ chức hội Óc pò (ra/chơi núi).
Người Dao ở Thái Nguyên chiếm 2,08% dân số toàn tỉnh, thuộc 3 nhóm: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, sống chủ yếu ở các huyện: Đại Từ, Võ Nhai, Định Hoá, Phổ yên (Bảng 1.1, 1.2). Dân tộc Dao có truyền thống du canh, du cư, sống bằng canh tác nương rẫy, ngoài ra họ còn chăn nuôi, làm các nghề thủ công như đan lát, dệt, làm giấy, làm đồ trang sức… Lễ cấp sắc của người Dao rất phong phú, liên quan đến nhiều lĩnh vực văn hoá như: Thế giới tâm linh, văn học nghệ thuật, tập quán sinh hoạt và giáo dục… Nếu tiếp tục duy trì theo tập quán cổ truyền sẽ góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy các đặc trưng văn hoá truyền thống của tộc người Dao ở Thái Nguyên.
Có thể bạn quan tâm!
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 1
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 2
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 4
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 5
- Tiềm năng du lịch Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hoá 1995 - 2007 - 6
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Dân tộc Hmông chiếm 0, 46% dân số toàn tỉnh, sống rải rác ở các huyện, thị trong toàn tỉnh, nhưng nhiều nhất là ở các huyện: Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Lương (Bảng 1.1, 1.2). Cây lương thực chính của người Hmông là ngô, khoai, sắn. Người Hmông có rất nhiều làn điệu dân ca, trong đó nổi tiếng là các làn điệu mộ nha (đi làm dâu), cú nhe ca (yêu nhau), mọ ha rưng (đi rừng)… Đi liền với các làn điệu dân ca là các loại nhạc cụ khèn, kèn, sáo. Những điệu múa khèn, thổi khèn lá của người đàn ông Hmông không chỉ làm say mê các dân tộc trong nước mà còn cuốn hút cả du khách nước ngoài. Người Hmông có nhiều trò chơi dân gian như pá mò ma (tung còn), tàu xí (đánh khăng), xi pá rối (đánh
ngón tay)…
Dân tộc Hoa chiếm 0,24% dân số toàn tỉnh, cư trú phân tán trong một số huyện, thị như: Định Hoá, Đồng Hỷ, Phú Bình (Bảng 1.1, 1.2). Họ sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau, như nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp… Trong những ngày lễ tết, ngày hội… người Hoa thường hát sơn ca, múa sư tử, múa quyền thuật, đấu vật, đánh đu…
Ngoài ra ở Thái Nguyên còn có các dân tộc Mường, Thái, Ngái… chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số dân (Bảng 1.1, 1.2). Như vậy, Thái Nguyên là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc, mỗi dân tộc đều có những sắc thái văn hoá riêng, giống như những gam màu tạo nên một bức tranh văn hoá hết sức đặc sắc, riêng biệt mà không nơi nào có được. Sự giao lưu văn hoá là một hiện tượng mang tính phổ biến và quen thuộc ở các quốc gia đa dân tộc. Song ở Thái Nguyên, sự giao lưu đó không diễn ra lẻ tẻ, rời rạc mà là một sự tiếp thu, bồi đắp của cả quá trình lâu dài, mang tính hệ thống, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong việc hình thành và phát triển một truyền thống văn hoá phong phú và đặc sắc, thể hiện qua các lễ hội truyền thống như: Hội đền Đuổm - Phú Lương, hội chùa Hang - Đồng Hỷ, hội Lồng Tồng - Định Hoá… cùng với nếp văn hoá nhà sàn và cách sống quần cư theo làng bản.
1.2. ĐỊA DANH THÁI NGUYÊN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời các Vua Hùng, nước Văn Lang chia làm 15 bộ. “Thái Nguyên thuộc đất bộ Vũ Định, Đông và Bắc giáp Cao, Lạng; Tây và Nam giáp Kinh - Bắc; có 2 lộ phủ, 9 huyện, 2 châu và 336 làng xã. Đây là nơi phên giậu thứ 2 về phương Bắc”[63, tr.238]. Thái Nguyên lúc đó nằm dưới sự cai quan của chế độ lạc tướng. Khoảng đầu công nguyên, chế độ lạc tướng chấm dứt, bộ chuyển thành huyện, Vũ Định vẫn giữ tên cũ. Dưới thời đô hộ của nhà Triệu (phong kiến phương Bắc), Thái Nguyên nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long Biên thuộc quận
Giao Chỉ. Đến đời Đường, Thái Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga, thuộc An Nam Đô hộ phủ.
Dưới thời Đinh, Tiền Lê (thế kỷ X), nước ta chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, rời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã đổi 10 đạo thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên nằm trong các châu biên viễn. Đầu năm 1226, nhà Trần đổi châu thành lộ, vùng đất Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt Giang lộ. Năm 1397, nhà Trần đổi châu Thái Nguyên thành trấn Thái Nguyên, “Đại thể trấn Thái Nguyên tương đương với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và nửa tỉnh Cao Bằng ngày nay” [2, tr.119].
Thời thuộc Minh (1407-1427), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407) trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên; năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa chính ty.
Năm 1428, Lê Thái Tổ chia đất nước thành 5 đạo: Tây Đạo, Đông Đạo, Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước, từ 5 đạo được chia nhỏ thành 12 đạo Thừa Tuyên. Thái Nguyên là một trong 12 đạo Thừa Tuyên đó và được gọi là Thái Nguyên Thừa Tuyên.
Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) nhà Lê đổi Thái Nguyên Thừa Tuyên thành Ninh Sóc Thừa Tuyên. Đến đời Hồng Đức (1483), Ninh Sóc Thừa Tuyên được đổi thành xứ Thái Nguyên; năm 1533, xứ Thái Nguyên được đổi thành trấn Thái Nguyên.
Từ thời Lê Trung Hưng (1533-1789), đến hết thời Nguyễn Gia Long, Thái Nguyên vẫn gọi là trấn.
Dưới thời Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1831, 1832, Minh Mệnh chia cả nước thành 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên, trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên.
Dưới thời Pháp thuộc từ tháng 10-1890 đến tháng 9-1892, tỉnh Thái Nguyên bị xóa bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dưới quyền quản lí của chính quyền quân sự Pháp.
Ngày 11-4-1900, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thông Hoá của Thái Nguyên. Ngày 21/4/1965, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà quyết định hợp nhất tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Ngày 29/12/1978, Quốc hội khoá VI quyết định tách 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã khỏi Bắc Thái chuyển về tỉnh Cao Bằng.
Tháng 4/1985 thị xã Sông Công được thành lập trên cơ sở một số xã phía Bắc của huyện Phổ Yên và một xã phía Nam của huyện Đồng Hỷ theo quyết định số 113/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Thái tách thành 2 tỉnh: Thái Nguyên và Bắc Kạn. Tỉnh Thái Nguyên ngày nay có một thành phố, một thị xã và 7 huyện: Thành phố Thái Nguyên, thị Sông Công, các huyện Phú Bình, Phổ Yên,Võ Nhai, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Định Hoá. Dân số trên 1,1 triệu người với 9 dân tộc anh em cùng chung sống [59, tr.11].
1.3. TRUYỀN THỐNG CHỐNG NGOẠI XÂM
Là trung tâm của vùng chiến lược phía Bắc sông Hồng, với địa hình sông núi hiểm trở nên trong lịch sử, các dân tộc Thái Nguyên phải thường xuyên đối mặt với các thế lực ngoại bang và cả các tầng lớp phản nghịch trong nước. Từ xa xưa, Thái Nguyên đã từng được coi là “phên giậu” phía Bắc của kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, là điểm xuất phát triển khai chống giặc ngoại xâm ở miền biên giới, vì vậy nhân dân các dân tộc Thái Nguyên sớm có bản lĩnh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm và chống bất công xã hội.
Ngay từ trước công nguyên, người dân Thái Nguyên đã tham gia vào cuộc kháng chiến đầu tiên của dân tộc chống quân Tần xâm lược, bản sắc phong ở Đền Giá (Phổ Yên) có ghi: “Một người dân làng Giá có công đánh giặc Ân
được phong là Mạnh Điền Đại Vương” [59, tr.15]. Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhiều cuộc khởi nghĩa với những quy mô lớn nhỏ, trên những địa bàn khác nhau luôn luôn bùng nổ nhằm chống lại ách đô hộ của kẻ thù. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Bà Triệu, khởi nghĩa Phùng Hưng…[59, tr.136].
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần I (981), nhân dân Thái Nguyên lại sát cánh cùng với nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đánh tan quân xâm lược Tống. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần II (1076-1077), phần đất phía Nam của Thái Nguyên từng là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân nhà Lý với giặc Tống. Biết bao người con ưu tú của Thái Nguyên đã đổ xương máu, hi sinh cả tuổi thanh xuân để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Tiêu biểu là Dương Tự Minh, người trực tiếp tham gia chiến đấu góp phần đánh tan quân xâm lược Tống trên phòng tuyến sông Cầu. Đến thế kỉ XIII, nhân dân Thái Nguyên góp phần cùng với triều Trần, 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi. Khi nhà Minh xâm lược và nô dịch nước ta, phong trào giải phóng dân tộc ở Thái Nguyên cũng bùng lên mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí diễn ra vào năm 1408, tiếp theo là những cuộc nổi dậy của Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trừ, ông Lão … Đến năm 1410 hình thành phong trào “Áo đỏ” ( hay còn gọi là nghĩa binh hồng y). Nghĩa quân lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng chặn đánh địch rất hiệu quả. Từ Thái Nguyên phong trào lan rộng ra khắp vùng Việt Bắc, Tây Bắc và cả miền rừng núi Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh: “Nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng phát triển phong trào ra khắp vùng Việt Bắc và còn lan rộng sang Tây Bắc và đến núi Thanh Nghệ, suốt 17 năm ròng rã gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề” [38, tr.239].
Ngày 7/2/1418, Lê Lợi cùng nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn - Thọ Xuân - Thanh Hoá đã thu hút nhiều hào kiệt quy tụ, trong đó có
Lưu Nhân Chú (con trai Lưu Trung - một gia đình nhiều đời làm quan nhỏ ở vùng An Thuật - Huyện Đại Từ - Thái Nguyên). Năm 1884, sau khi về cơ bản đánh chiếm xong các tỉnh Nam Kì và đồng bằng Bắc Kì, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các tỉnh thượng du Bắc Kì, trong đó có Thái Nguyên, nhưng ở đây quân Pháp đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân Thái Nguyên, phải đến những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp mới hoàn thành việc đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên. Nhưng chưa kịp thiết lập và cải cách bộ máy thống trị đến các làng, các tổng, thì phong trào đấu tranh của nhân dân Thái Nguyên lại một lần nữa diễn ra mạnh mẽ, chống lại chính sách cai trị của thực dân Pháp. Tiêu biểu là phong trào chống Pháp do Mã Sinh Long (Mã Mang) lãnh đạo. Cùng thời gian đó, nghĩa quân Yên Thế từ Bắc Giang tràn sang Thái Nguyên, nhân dân Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Võ Nhai… đã hăng hái tiếp tế lương thực, thực phẩm và dẫn đường cho nghĩa quân, nhiều người tình nguyện đứng vào hàng ngũ nghĩa quân đánh Pháp.
Cuối 1892, binh lính người Việt trong Quân đội Pháp đóng ở đồn Hùng Sơn (Đại Từ) dưới sự chỉ huy của Cai Bát đã nổi dậy làm binh biến, được nhân dân các vùng hưởng ứng mạnh mẽ. Đặc biệt, một sự kiện vang dội cả nước, làm chấn động nước Pháp, ảnh hưởng tới tận các xứ thuộc địa khác trên thế giới đã nổ ra vào đêm 30 rạng 31/8/1917 tại thị xã Thái Nguyên, đó là khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Nghĩa quân gồm binh lính yêu nước, tù chính trị và các tầng lớp nhân dân khác đã giết giám binh, chiếm toà công sứ, trại lính khố xanh, phá nhà lao, làm chủ tỉnh thành Thái Nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã làm chủ được tỉnh lỵ (mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn), đặt quốc hiệu là Đại Hùng, thành lập quân đội riêng là Quang phục quân, định ra tôn chỉ: Đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên tuy cuối cùng thất bại, nhưng ảnh hưởng của nó, tên tuổi của Đội Cấn, Lương Ngọc