Thực trạng và một số giải pháp nhằm ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân sau thu hồi đất tại KCN Trung Thành - Phổ Yên – Thái Nguyên - 2



không những thế đất đai là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng không thể thay thế trong sản xuất nông nghiệp, nó còn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề tạo việc làm cho lao động nông thôn, bởi đất đai nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất, nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội, song tuỳ vào từng ngành, từng giai đoạn mà vai trò của nó được thể hiện khác nhau. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, đối với người dân nông thôn thì ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố đầu vào thông thường mà nó còn là yếu tố tích cực trong sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, sản lượng mà người dân thu được trong quá trình sản xuất. Hơn nữa, đất đai mặc dù bị giới hạn về không gian nhưng sức sản xuất của nó là vô hạn, điều này lý giải rò vấn đề khác nhau về tỷ lệ đất đai ở mỗi quốc gia, và sự khác nhau này nó dẫn đến tốc độ phát triển kinh tế của mỗi nước cũng khác nhau. Nước ta là một nước có thể coi là đất chật, người đông, với dân số xấp xỉ 86 triệu người, dân số sống ở nông thôn chiếm 73%. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp chiếm khá lớn 9.345,4 nghìn ha (29,4% tổng diện tích cả nước), do vậy nếu sử dụng hợp lý diện tích đất lớn này cho phép khai thác cả chiều rộng và chiều sâu để đáp ứng những nhu cầu của người dân, góp phần ổn định, nâng cao thu nhập và đảm bảo cuộc sống của họ. Ngoài ra, đất đai còn là tư liệu sản xuất không bị hao mòn, không bị đào thải trong quá trình sản xuất.

Nói tóm lại, ruộng đất có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp nói chung, đối với việc tạo việc làm, giải quyết lao động dư thừa trong nông thôn nói riêng. Do đó nếu không sử dụng hợp lý đất sẽ dẫn đến tới hậu quả rất lớn đó là: Thất nghiệp, thu nhập thấp và nghèo đói, điều này sẽ hạn chế sự phát triển của khu vực nông thôn nói riêng và sự phát triển KT - XH của cả nước nói chung. Chính vì vậy, trong những năm qua vì mục tiêu phát triển KT - XH nhà nước đã thu hồi một diện tích đất nông nghiệp rất lớn (366000 ha), song nhận thấy được vai trò rất lớn của đất đai đối với người dân Đảng và Nhà nước ta cũng đưa ra rất nhiều giải pháp nhằm hạn chế tối đa tác động của THĐ tới đời sống của người dân.


2.1.1.2. Các vấn đề về thu hồi đất

Trong quá trình quản lý của Nhà nước về đất đai, Nhà nước đã dùng nhiều biện pháp khác nhau để phân phối và phân phối lại quỹ đất quốc gia cho nhiều chủ sử dụng đất, một trong những biện pháp đó chính là thu hồi đất. Vậy, thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của luật đất đai năm 2003. Có thể nói, thu hồi đất là giai đoạn kết thúc việc sử dụng đất của chủ thể này, nhưng lại là bước kế tiếp của việc sử dụng đất của một chủ thể mới. Đó cũng là mối quan hệ qua lại giữa giao đất và thu hồi đất. Do vậy các quy định về THĐ cần kết nối được lợi ích của 3 chủ thể quan trọng là Nhà nước, chủ đầu tư sử dụng đất và người bị THĐ, đồng thời phải có những chính sách quan tâm tới đời sống KT-XH của những chủ thể sau THĐ.

Đặc trưng của thu hồi đất: Thu hồi đất là một trong những nội dung quan trọng của quản lý Nhà nước về đất đai. Vì vậy, để thực thi nội dung này, quyền lực của Nhà nước được thể hiện nhằm đảm bảo lợi ích không chỉ của Nhà nước mà của toàn xã hội, để đảm bảo được những lợi ích trên thì việc THĐ phải bao gồm những đặc trưng sau:

+ THĐ phải là quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai và thẩm quyền này phải tuân thủ theo điều 44 của luật đất đai 2003.

+ Việc THĐ phải xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước về KT- XH hoặc là những biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng (Sở Giáo dục & Đào tạo Hà nội, 2006) [14].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Nói tóm lại, THĐ là một trong những nội dung quan trọng trong khâu quản lý của Nhà nước về đất đai. Song, để có thể ổn định và phát triển KT- XH sau thu hồi đất và lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý Nhà nước về đất đai đang là một vấn đề nổi cộm, khó giải quyết. Đặc biệt, trong quá trình CNH - HĐH đất nước, Nhà nước với tư cách là chủ đầu tư lớn nhất có nhiệm vụ xây dựng các cơ sở kinh tế, hạ tầng xã hội, sử dụng đất vào mục đích công cộng, lợi ích cộng đồng, bảo vệ chủ quyền quốc gia cùng với các chủ đầu tư


Thực trạng và một số giải pháp nhằm ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân sau thu hồi đất tại KCN Trung Thành - Phổ Yên – Thái Nguyên - 2

khác có nhu cầu sử dụng đất rất lớn, trong khi những diện tích Nhà nước có nhu cầu sử dụng lại do những tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang có quyền sử dụng đất. Chính vì thế khi thu hồi đất sẽ không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực tới đời sống của các chủ thể bị thu hồi đất, do đó một trong những việc mà Đảng và nhà nước luôn coi trọng đó là hỗ trợ cho người dân ổn định việc làm và đời sống kinh tế sau khi THĐ.

2.1.2. CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với vấn đề thu hồi đất

2.1.2.1. Các vấn đề liên quan đến CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nói riêng là một quá trình tất yếu, khách quan để phát triển nên kinh tế, nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên, ở mỗi nước trong mỗi thời kỳ cần có mục tiêu, bước đi thích hợp. Vùng nông thôn nước ta là một vùng rộng lớn với 73% dân số sinh sống, tỷ lệ GDP còn thấp song lại có một vị trí vô cùng quan trọng. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là vấn đề đặc biệt quan trọng nhằm đưa nước ta thực sự trở thành một nước công nghiệp đến năm 2020.

- Công nghiệp hoá: Là một cuộc đại phân công lao động xã hội, là quá trình cơ cấu lại toàn bộ nền sản xuất của xã hội theo phương thức sản xuất đại công nghiệp. Như vậy, công nghiệp hoá là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng…(Bộ nông nghiệp &PTNT, 2005) [2].

- Hiện đại hoá: Là giai đoạn phát triển hậu công nghiệp, sự phát triển này diễn ra với 2 cuộc cách mạng: Cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng trong quản lý kinh tế với sự xác lập của kinh tế thị trường hiện đại và quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế (Bộ nông nghiệp & PTNT, 2005) [2].

Qua hai khái niệm trên, ta có thể rút ra khái niệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như sau: Đó là quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn từ trạng thái kinh tế cổ truyền thuần nông, tự cung tự cấp thành nền kinh tế với cơ cấu kinh tế mới trong đó tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ nông thôn ngày càng tăng.


2.1.2.2. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với vấn đề thu hồi đất và đời

sống người dân sau THĐ

Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngày càng được đẩy mạnh đi đôi với việc đất nông nghiệp được chuyển sang phục vụ xây dựng các KCN, khu đô thị ngày một tăng, mặc dù đây là một quy luật mang tính tất yếu, khách quan của xã hội. Song, cũng chính quá trình này đã dẫn tới muôn vàn khó khăn mà người dân ở nhiều địa phương đang gặp phải sau THĐ. Theo thống kê, cứ mỗi năm có tới 73000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các khu, cụm công nghiệp. Tuy nhiên, bà con không giàu lên mà trái lại 53% số hộ nghèo đi, nhiều người phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp, thiếu việc làm và nghèo đói. Theo khảo sát của Bộ lao động – thương binh và xã hội thì trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm, và trung bình mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có 13 lao động mất việc làm. Qua đây có thể nói, việc thu hồi đất phục vụ phát triển các khu công nghiệp đang đặt ra rất nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt trong lĩnh vực giải quyết việc làm, thu hút lao động, ổn định đời sống kinh tế của người dân sau THĐ. Tuy nhiên, trong những năm tới để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước đó là đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thì việc THĐ nông nghiệp để phục vụ xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị là một yêu cầu khách quan không thể tránh khỏi, đây cũng có thể được coi là một cơ hội để thay đổi bộ mặt nông thôn hiện nay. Song, để tận dụng cơ hội này một cách hiệu quả thì Đảng và Nhà nước phải có những giải pháp thiết thực để tiến hành chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý, giải quyết triệt để vấn đề lao động việc làm cho người dân trong vùng THĐ đảm bảo họ có thu nhập cao, ổn định và có cuộc sống tốt hơn trước.

2.1.3. Lao động, việc làm và các vấn đề liên quan

2.1.3.1. Lao động và các vấn đề liên quan đến lao động

Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội (Quốc hội nước CHXHCNVN, 2006) [12]. Do vậy, lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định đến sự phát triển của đất nước.



- Nguồn lao động (lực lượng lao động): Là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.

- Độ tuổi lao động: Theo quy định của Bộ luật lao động thì độ tuổi lao động được tính như sau: + Đối với nam giới: Từ 15 đến 60 tuổi

+ Đối với nữ giới : Từ 15 đến 55 tuổi

Tuy nhiên, theo khái niệm trên thì những người trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc hoặc không có khả năng làm việc thì không được tính trong lực lượng lao động: Ví dụ như học sinh, người tàn tật...

- Lao động có thể được phân loại theo những tiêu thức sau:

+ Phân loại theo tính chất lao động gồm có:

- Lao động trực tiếp

- Lao động gián tiếp

+ Phân loại theo thời gian lao động gồm có:

- Lao động thường xuyên

- Lao động tạm thời

+ Phân loại theo trình độ được đào tạo:

- Lao động trình độ cao đẳng, đại học trở lên

- Lao động trình độ trung cấp

- Lao động trình độ sơ cấp

- Lao động phổ thông

+ Phân loại theo ngành nghề gồm có:

- Lao động nông nghiệp

- Lao động công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp

- Lao động dịch vụ



2.1.3.2. Việc làm và các vấn đề liên quan đến việc làm

* Việc làm

Theo điều 13 Bộ luật lao động nước Việt nam (2006) [12] thì việc làm được định nghĩa như sau: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.

Theo định nghĩa trên, các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:

+ Các hoạt động tạo ra của cải, vật chất và giá trị tinh thần, không bị pháp luật cấm, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.

+ Những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình và cho cộng đồng kể cả những việc trả công bằng tiền hoặc hiện vật.

- Người có việc làm: Là những người thuộc lực lượng lao động mà trong tuần lễ trước tính đến thời điểm điều tra:

+ Đang làm công việc để nhận tiền lương, lợi nhuận hay hiện vật

+ Đang làm công việc không được tiền lương hay lợi nhuận trong các công việc sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình mình.

- Người có đủ việc làm: Bao gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra ≥ 40 hoặc ≤ 40 nhưng ≥ số giờ quy định đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành.

- Phân loại việc làm: Việc làm được phân loại theo các mức độ sau

+ Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm

Việc làm chính: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác

Việc làm phụ: Là những việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau việc làm chính

+ Phân loại việc làm dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất và thu nhập:


Việc làm đầy đủ: Là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ do Bô luật lao động Việt nam quy định (8h/ngày)

Việc làm có hiệu quả: Là việc làm với năng suất, chất lượng cao, tiết kiệm được chi phí lao động, tăng năng suất lao động đảm bảo được chất lượng của các sản phẩm làm ra

* Thiếu việc làm

Là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc nhưng không hết sử dụng hết thời gian theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp không đủ sống khiến họ muốn kiếm thêm việc làm bổ sung.

- Thiếu việc làm được thể hiện dưới 2 dạng: Thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình.

+ Thiếu việc làm vô hình: Là trạng thái những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Trên thực tế họ vẫn làm việc nhưng sử dụng ít thời gian trong sản xuất do vậy thời gian nhàn rỗi nhiều.

+ Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ vệc làm đang kiếm thêm việc làm và sẵn sàng làm việc.

* Thất nghiệp

Thất nghiệp là hiện tượng mà người lao động trong độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc nhưng lại chưa có việc làm và đang tìm kiếm việc làm (Bộ Giáo dục & Đào tạo, 2007) [1].

Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để

hiểu rò về nó. Thất nghiệp có thể được chia thành các loại như sau:

- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:


+ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người đang trong thời gian tìm kiếm công việc hơặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng, hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc hoặc chờ đợi đi làm.

+ Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối cung - cầu giữa các loại lao động (không đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi) (Nguyễn Văn Ngọc, 2007) [9].

+ Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như là kết quả của những biến động

thời vụ trong các cơ hội lao động.

+ Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các yếu tố đầu vào trong đó có lao động (Nguyễn Văn Ngọc, 2007) [9].

- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp bao gồm:

+ Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng.

+ Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp xảy ra khi người lao động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm được việc làm.

- Ngoài ra ở các nước đang phát triển, người ta còn chia thất nghiệp thành thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp vô hình

+ Thất nghiệp hữu hình: Xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường.

+ Thất nghiệp vô hình: Là biểu hiện của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển, họ là những người có việc làm ở khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức, việc làm này cho năng suất thấp và không ổn định.

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 30/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí