Kế Hoạch Phát Triển Sản Xuất Kinh Doanh Của Công Ty Trong Những Năm Tới


lỗ, không nộp đủ nghĩa vụ với nhà nước và với công ty, không bảo đảm thu

nhập tối thiểu cho người lao động.

Đối với đội ngũ kinh doanh mạnh dạn lựa chọn đội ngũ cán bộ trẻ, khoẻ, có trình độ được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngành ( 100% các đồng chí trưởng phòng và chức vụ tương đương đều tốt nghiệp đại học ngoại thương và đại học khác).

Ưu tiên sử những cán bộ nhanh nhạy, có trình độ nghiệp vụ, liên tục đào tạo lại đội ngũ cán bộ để bước đầu đảm nhiệm và thích ứng được với cơ chế thị trường.

Đối với những cán bộ không còn khả năng để thích ứng với cơ chế

mới, Công ty sẽ giải quyết tối ưu cho cả hai bên.

Công ty có kế hoạch tuyển thêm lao động mới đáp ứng nhu cầu kinh

doanh hiện nay.

- Công ty thường xuyên phát động thi đua, hàng tháng có thưởng kèm theo kim ngạch cho từng cá nhân làm công tác kinh doanh và đều đặn có thưởng theo qúy cho cá nhân và phòng để động viên mọi người làm việc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Năm 2002 bình quân thu nhập khối kinh doanh là 2 triệu đồng, của khối quản lý là 1,55 triệu đồng, của khối sản xuất là 1,5 triệu đồng.Bình quân thu nhập của toàn công ty là 1,82 triệu đồng.

Cán bộ công nhân viên được tạo điều kiện tham gia công tác đoàn thể, như năm 2002 và 2003 đoàn thể của công ty đi thi văn nghệ của Bộ đã dành được rất nhiều giải thưởng, tổ chức tốt các ngày kỷ niệm truyền thống, có chế độ thăm hỏi nhân viên ốm đau, hiếu hỉ... Một năm một lần tổ chức cho CBCNV đi nghỉ mát, chi tiền quần áo , mua đầu máy karaoke để làm phong phú đời sống tinh thần cho người lao động.

Thực trạng lợi nhuận và một số giải pháp nâng cao lợi nhuận ở công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP - 10

Chế độ khen thưởng hợp lý đã tạo ra không khí làm việc phấn khởi, toạ điều kiện nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi người trước nhiệm vụ được giao đồng thời thúc đẩy cán bộ công nhân viên tìm mọi biện pháp nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh.

- Trong năm qua Công ty đã tích cực khai thác, thăm dò tìm kiếm thị trường. Nhận thấy công tác thị trường là cực kỳ quan trọng, trong tình hình kinh tế hiện nay Công ty đã lăn lộn để có thể mở rộng thị trường. Ngoài những thị trường quen thuộc như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Pháp, Đức, Malaysia... công ty đã khai thác mở rộng sang Anh, Bungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và một số thị trường Nam Mỹ và là một trong những doanh nghiệp đầu tiên đã xuất khẩu được hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Mỹ. Song thực tế, hàng của Công ty là hàng tạp phẩm, hàng thủ công làm bằng tay là chủ yếu theo kiểu gom nên giá trị không cao . Công ty cũng đã xuất khẩu cao su sang Đức, Hàn Quốc, Achentina nhưng cũng chỉ là bước thâm nhập thị trường, chưa phát triển mạnh bởi sự bấp bênh và cạnh tranh về


giá cả trong và ngoài nước. Công ty còn bị ảnh hưởng bởi chính sách điều

hành kinh tế và sự cạnh tranh trong kinh doanh nhất là với Trung Quốc.

Để góp phần nâng cao lợi nhuận Công ty đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình như : Cho thuê tài sản cố định chưa cần dùng, tham gia đầu tư liên doanh, sản xuất gia công chổi quét sơn, con lăn tường, sử dụng hết vốn bằng cách tham gia vào thị trường tài chính, thông qua hoạt động mua bán trái phiếu, tín phiếu... ngoài hoạt động kinh doanh chính là hoạt động XNK trực tiếp Công ty còn thực hiện XNK uỷ thác, tái xuất, chuyển khẩu, hàng đổi hàng...


*Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu còn có những hạn chế sau:

-Thường thì công ty chỉ nhập khẩu khi có đơn đặt hàng nhưng trong vài năm gần đây do cơ chế thị trường đòi hỏi sự năng động, táo bạo trong kinh doanh công ty đã nhập một số mặt hàng từ nước ngoài để chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước ( như ôtô, máy nóng lạnh, ...), và lợi nhuận từ hoạt động này thu được rất đáng kể. Do xu hướng kinh doanh trong nền kinh tế hiện nay ngày càng khốc liệt, công ty luôn phải đương đầu với nhiều đối thủ kinh doanh cùng lĩnh vực, cùng mặt hàng, đặc biệt với nhập lậu thuế, những mặt hàng liên doanh sản xuất trong nước được nhà nước khuyến khích sản xuất, do đó giá cả rẻ hơn rất nhiều, cho nên hàng nhập khẩu của công ty trong năm qua tiêu thụ chậm, chi phí cho quảng cáo, cho nhân viên bán hàng nhiều, cho nên phí bán hàng cả năm đã tăng lên so với năm 2001. Điều này sẽ làm tăng chi phí ảnh hưởng đến lợi nhuận nhập khẩu nói riêng và lợi nhuận của toàn bộ công ty nói chung

-Bên cạnh đó thì tình hình sử dụng vốn của công ty chưa hợp lý và đạt hiệu quả chưa cao, cụ thể là hiện nay công ty có một số tài sản cố định chưa cần dùng như nhà kho đem cho thuê lấy lãi, chủ yếu là T.P Hồ Chí Minh. Về kho bãi của công ty ở xa cơ quan, hiện nay đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm , làm tăng chi phí bảo quản, tăng chi phí do hàng hoá bị hư hỏng.

-Công ty đã quản lý chưa tốt vốn lưu động, đã để tình trạng hàng tồn kho quá lớn như hiện nay, làm cho vòng quay của vốn giảm.

-Công ty vốn chưa chú trọng tới chiến lược Marketing tiếp cận thị trường tiêu thụ. Công ty mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chung về việc nghiên cứu tình hình kinh tế thế giới, tình hình giá cả thị trường, tìm hiểu về kinh tế pháp luật và tập quán thương mại của các nước.

-Việc quản lý chi phí của công ty là chưa tốt, nhiều chi phí phát sinh mà không có chứng từ hợp lệ. Các chi phí về dịch vụ mua ngoài, tiền nước, tiền điện, fax, internet còn quá cao. Việc tổ chức quá trình mua vào bán ra và quản lý hàng chưa hợp lý đã làm tăng chi phí không đáng có trong năm 2002


vừa qua. Các phòng còn lãng phí các chi phí giao nhận vận chuyển, các chi

phí khác trong việc thực hiện hợp đồng.

Trên cơ sở xem xét , tìm hiểu, nắm bắt tình hình thực tế của công ty trong quá trình thực tập, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận đối với công ty XNK Tạp Phẩm Hà Nội (TOCONTAP) trong thời gian tới.


Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận ở công

ty TOCONTAP


I/Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm tới

Năm 2003 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là năm “bản lề” thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005. Phát huy kết quả đạt được trong năm 2002, với khí thế mới toàn thể CBCNV cty trên dưới một lòng, đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển phồn vinh của cty trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Trong năm 2003 cty tập trung phấn đấu nhằm vào các mục tiêu sau đây:


-Kim ngạch xuất nhập khẩu : 24.000.000 USD

Trong đó xuất khẩu : 7.000.000 USD

nhập khẩu : 17.000.000 USD

-Doanh số : 225 tỷ đồng

-Nộp ngân sách : 34 tỷ đồng

-Lợi nhuận : 02 tỷ đồng

-Thu nhập bình quân :1,8 triệu đ/ng/tháng

*Để thực hiện các mục tiêu nêu trên công ty cần tập trung giải quyết các

vấn đề có tính định hướng sau:


Một là: củng cố và mở rộng thị trường ngoài nước để tăng kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh những thị trường đang thực hiện như Canada, Acgentina, Anh, Iraq, Singapore, Malaysia... cần mở rộng các thị trường mới ở châu Phi, Trung cận đông, các nước láng giềng như Lào, Campuchia. Cần có biện pháp cụ thể để hỗ trợ xí nghiệp mỳ ăn liền ở Lào phát triển sản xuất và xuất khẩu có hiệu quả. Xí nghiệp TOCAN có thêm biện pháp đưa sản phẩm sang


thị trường Mỹ và các nước khác. Đối với thị trường Trung Quốc, đây là một thị trường rộng lớn có kinh nghiệm, cty cố gắng tìm liên doanh liên kết để cùng kinh doanh và cùng xuất khẩu, tìm những cty có thế mạnh để học tập và phát triển.

Hai là: Chủ động gắn bó với các cơ sở sản xuất trong nước để đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu thị hiếu luôn thay đổi của thế giới, tạo ra những mặt hàng có giá thành rẻ chất lượng cao, tạo sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.


Ba là: Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng nhanh vòng quay vốn. Năm 2003 phấn đấu chu kỳ luân chuyển vốn bình quân của cty là 60 ngày, giảm thêm số dư nợ bình quân và đặc biệt là giảm tối đa số dư nợ quá hạn của các khách hàng nội địa. Coi đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt độngcủa các phòng kinh doanh.


Bốn là: Thực hiện nghiêm chỉnh khẩu hiệu “không buôn lậu, không gian lận thương mại”, luôn bảo vệ sự trong sạch của tên tuổi TOCONTAP trên thương trường.Kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm quy định của cty, tiếp tục thực hiện cơ chế khoán của cty để thể hiện rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng người lao động.


Năm là: Chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện cổ phần hoá theo quy định của Nhà nước. Sớm thành lập bộ phận nghiên cứu các qui định của Nhà nước về cổ phần hoá, tổ chức việc học tập nghiên cứu chính sách cổ phần hoá trong toàn cty.


Sáu là: Tiếp tục làm tốt công tác bồi dưỡng , đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực kinh doanhcủa đội ngũ cán bộ cty để đáp ứng với nhu cầu hội nhập quốc tế. Củng cố các tổ chức trực thuộc cty như hai chi nhánh Hải Phòng, T.P HCM, xí nghiệp Lào, TOCAN để đáp ứng yêu cầu mới .


Bảy là: Chăm lo xây dựng cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng, thực hiện tốt quy chế dân chủ, công khai, quan tâm các mặt hoạt động khác làm cho đời sống vật chất tinh thần của CBCNV trong gia đình TOCONTAP luôn luôn hoà thuận, yên vui, vì sự phát triển của cty và hạnh phúc của mỗi thành viên.


II/Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh của công ty

1/Những thuận lợi


Công ty TOCONTAP là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước, đã có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Công ty đã xác lập mối quan hệ buôn bán với trên 70 nước.

Công ty có bộ máy quản lý hành chính tương đối gọn, có ban lãnh đạo năng động sáng tạo dám nghĩ, dám làm.

Đội ngũ cán bộ dầy dặn kinh nghiệm, liên tục phấn đấu phát huy tính

chủ động sáng tạo, sử dụng linh hoạt mọi phương thức kinh doanh.

Bước sang cơ chế thị trường, Công ty được trao quyền tự chủ kinh doanh đủ kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thực sự gắn liền với trách nhiệm và quyền lợi của mỗi cá nhân trong doanh nghiệp. Ban lãnh đạo đã đề ra được cơ chế quản lý kinh doanh đúng hướng, tự chủ tiết kiệm cụ thể là đã đưa ra một cơ chế khoán hợp lý, điều đó đã khuyến khích được người lao động thông qua việc kiểm soát bằng cơ chế để phát triển kinh doanh, tận dụng triệt để trí tuệ tài năng, nguồn vốn sở trường của từng bộ phận để tăng lợi nhuận cho Công ty tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động.

Công ty đã đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Công ty không chỉ kinh doanh xuất nhập khẩu mà còn đầu tư hợp tác liên doanh xây dựng nhà máy chế biến mỳ ăn liền ở CHDCND Lào, gia công hàng xuất khẩu mặt hàng chổi quét sơn con lăn tường liên doanh với Canada, cho thuê tài sản, tham gia vào thị trường tài chính thông qua hoạt động mua bán trái phiếu tín phiếu. Nhờ vậy mà Công ty đã nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn , hạn chế tổn thất xảy ra trong quá trình sử dụng vốn, tăng tốc độ vòng quay vốn.

Hoà cùng xu thế hội nhập trên toàn thế giới, hiện nay Vịêt Nam là thành viên của hiệp hội các nước ASEAN và AFTA. Đây là những cố gắng ở tầm vĩ mô, nhằm mang lại cho các doanh nghiệp trong nước nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu cơ hội mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng đối tác kinh doanh để tận dụng tối đa lợi thế này. Công ty đã thành lập một tổ xây dựng chiến lược kinh doanh XNK cho năm 2003 và do Tổng giám đốc phụ trách trực tiếp. Tích cực thâm nhập vào các thị trường mới thông qua hình thức triển lãm hội chợ. Có chính sách phù hợp với từng bạn hàng.

Ban lãnh đạo luôn quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của người lao động , nội bộ Công ty đoàn kết nhất trí phấn đấu hoàn thành và vượt kế hoạch đề ra. Các năm trước đây Công ty kinh doanh có lãi song cũng mới chỉ đủ nộp thuế vốn. Nhưng từ năm 1999 không những công ty kinh doanh có lãi mà còn được trích lập các quĩ phát triển sản xuất, dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, quĩ khen thưởng và quĩ phúc lợi. Năm 2002 công ty đạt doanh thu 288.237 triệu đồng ( giảm 4.093 triệu đồng so với năm 2001)nhưng lợi nhuận sau thuế đạt 1.438 triệu đồng ( tăng so với năm


2001) chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của công ty năm sau tăng lên so với năm trước.

Công ty thực hiện tốt qui chế dân chủ, công khai. Khối đoàn kết giữa Đảng- Chính quyền- Công đoàn rất chặt chẽ luôn cùng nhau bàn bạc và quyết định. Đặc biệt qua vụ án 177 tỷ đồng thể hiện sự đoàn kết trong lãnh đạo, Đảng uỷ và tập thể CBCNV.

Các phòng ban trong công ty luôn lấy cơ chế khoán là một thước đo để thể hiện sự đóng góp của từng CBCNV. Công ty thực hiện thưởng phạt phân minh, công bằng.

Toàn thể CBCNV luôn yêu quí công ty, coi công ty là nhà của mình. Thương hiệu công ty sẽ là lẽ sống của mọi người, đó cũng là yếu tố tinh thần quan trọng để vượt khó khăn.


2.Những khó khăn

TOCONTAP là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước, đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực ngoại thương nhưng Công ty đã gặp không ít khó khăn trong quá trình hoạt động, trong số đó có cả những khó khăn chủ quan và khách quan mang lại.

Trong thời gian qua Công ty vẫn kinh doanh trong tình trạng bạn hàng và mặt hàng trong và ngoài nước vẫn chưa ổn định. Vì vậy công ty phải chịu áp lực rất lớn từ các thành viên kinh doanh khác đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Bên cạnh đó Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội chủ yếu là kinh doanh dịch vụ, mà trong cơ chế mới yêu cầu về mối quan hệ đòi hỏi ngày càng rộng thì mới có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Ngoài bạn hàng, nguồn hàng cũng là yếu tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Hiện tại Công ty chưa có cơ sở sản xuất hay chưa gắn chặt với các đơn vị sản xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu cho Công ty do vậy mà Công ty vẫn chưa tìm được thị trường trong nước qua kinh doanh XNK.

Đặc điểm hàng hoá kinh doanh của Công ty là hàng tạp phẩm giá trị hàng quá nhỏ. Ngoài ra công ty không phải là một trong những đầu mối của hàng nông sản dệt may giày dép. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là chổi quét sơn chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu, song vẫn chỉ là hàng gia công là chính, lại không được ổn định bởi sự cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc. Một số mặt hàng xuất khẩu khác như thủ công mỹ nghệ,gốm sứ, mây tre, văn phòng phẩm nhưng kim ngạch chưa ổn định, không cao. Cũng như hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu của Công ty phần lớn là hàng tạp phẩm nhỏ nhặt, không có mặt hàng đầu mối nào. Để đảm bảo doanh số và tạo việc làm, công ty đã tiếp nhận những hợp đồng trị giá rất nhỏ chỉ vài ngàn USD Công ty vẫn chưa xác định được khu vực kinh doanh


chính của mình. Mặc dù có quan hệ buôn bán với trên 70 nước nhưng hầu như chỉ mang tính chất tạm thời, kim ngạch XNK nhỏ.

Nhìn chung hoạt động kinh doanh XNK của Công ty có ổn định, hoạt động với hình thức tự doanh là chính, và nhập khẩu hơn hẳn xuất khẩu, biện pháp đứng ra nhận uỷ thác XNK chỉ là biện pháp trước mắt vì khi các đơn vị sản xuất trưởng thành trong lĩnh vực này thì cơ hội đứng ra nhận XNK sẽ không còn.

Sau 5 năm áp dụng cơ chế khoán kinh doanh, các mặt tích cực có thể nhận rõ, tuy nhiên không thể thừa nhận xu hướng chuyên sâu ngày càng lu mờ, hợp tác cùng phát triển bị coi nhẹ. Xu hướng muốn loại trừ nhau phát triển không lành mạnh trong Công ty chủ yếu là tranh nhau cùng một mặt hàng, tranh khách, tranh bán cái đã có, chưa tích cực tìm bạn hàng mới, thị trường mới. Đây chính là mặt trái của cơ chế khoán trong kinh doanh. Tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế tiêu cực trong cơ chế khoán là điều mà ban lãnh đạo Công ty cần nghiên cứu giải quyết.

Trước kia từng là một trong số những doanh nghiệp độc quyền trong lĩnh vực XNK nhưng hiện nay chính phủ ban hành nghị định 57/CP cho phép mọi thành phần được trực tiếp kinh doanh XNK đã lấy đi thế mạnh của công ty.

Toàn cầu hoá, song song với việc đem lại những vận hội mới trong kinh doanh là những thách thức, cạnh tranh gay gắt. Mặc dù Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và AFTA nhưng Công ty vẫn chưa thực sự tìm kiếm được bạn hàng trong khu vực, chưa thực sự khai thác được thế mạnh này. Cơ hội sẽ không xuất hiện hai lần và nếu không biết tận dụng nó sẽ trở thành rủi ro với doanh nghiệp.

Công ty chưa sử dụng hiệu quả nguồn lực, đặc biệt là tài sản cố định,

mà chủ yếu là cho thuê để lấy lãi.

Công ty chưa có kế hoạch cụ thể cho việc sử dụng đội ngũ cán bộ. Mặc dù đội ngũ cán bộ của công ty lớn, có kinh nghiệm như cần đào tạo thêm tin học và ngoại ngữ... để phù hợp với tình hình mới. Còn có công nhân lao động bị ảnh hưởng bởi tính cao cấp, thiếu năng động, ỷ lại ,còn hiện tượng “sáng cắp ô đi chiều cắp ô về”.


II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty XNK tạp

phẩm Hà Nội.

45 năm trưởng thành và phát triển, Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội đã không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ.

Bên cạnh những thành tích đạt được, Công ty vẫn còn không ít những tồn tại đòi hỏi ban lãnh đạo và tập thể công nhân viên Công ty phải có biện


pháp khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo cho Công ty hoạt động có hiệu quả

trong những năm tiếp theo.

Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội , qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng hoạt động kinh doanh, em xin đưa ra một số ý kiến đề xuất hy vọng sẽ góp phần nâng cao lợi nhuận của Công ty.

1Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh

Khi nền kinh tế chưa chuyển đổi sang cơ chế thị trường vốn kinh doanh của công ty được Nhà nước bao cấp toàn bộ, khi công ty cần vốn có thể xin thêm hoặc vay của ngân hàng với lãi xuất thấp. Hiện nay phương thức cấp phát vốn không còn nữa, vốn kinh doanh chủ yếu của công ty là vốn tự có được bổ xung dần qua nhiều năm hoạt động kinh doanh và vốn vay của ngân hàng. Do đó doanh nghiệp luôn phải đối mặt với thị trường, tính rủi ro của đồng vốn trong quá trình vận động cao hơn, nếu làm ăn không tốt sẽ dẫn tới tình trạng thua lỗ, hoặc bị phá sản. Muốn kinh doanh có hiệu quả, công ty phải không ngừng quản lý giám sát đồng vốn một cách chặt chẽ hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được đưa mục tiêu hàng đầu, sao cho hoạt động kinh doanh với một lượng vốn nhất định nhưng thu được lợi nhuận nhiều nhất. Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ta phải đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.


1.1Nâng cao hiệu quả sử dụng của tài sản cố định.

Hiện nay công ty có một số tài sản cố định chưa cần dùng ( nhà, kho..) đem cho thuê lấy lãi, chủ yếu là ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây không phải là giải pháp hữu hiệu trong kinh doanh , Công ty nên có biện pháp linh hoạt hơn để đưa số tài sản này vào phục vụ hoạt động kinh doanh, từ đó đưa chi nhánh ở phía Nam hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, công ty nên cải tạo lại trụ sở 36 Bà Triệu, có thể xây BUILDING để cho thuê vì các phòng trong công ty rất ít mà nếu có xây thì chỉ sử dụng tối đa là 3 tầng, số phòng còn lại cho thuê có thể mỗi tháng cũng thu được hơn 50 triệu đồng.

Với đặc thù kinh doanh của Công ty, kho bãi đóng vai trò rất quan trọng, công ty cần lập kế hoạch sử dụng tài sản này một cách hợp lý hơn, nâng cấp cải tạo và xây dựng mới để giữ an toàn cho hàng hoá cả về số lượng và chất lượng từ đó giảm chi phí bảo quản, giảm chi phí do hàng hoá bị hư hỏng...Nhất là cần phải nâng cấp xí nghiệp TOCAN vì trong năm 2002 vừa qua tình hình nước úng ngập kéo dài , phải điều chuyển bố trí lại sản xuất, làm cho cuối năm bị thiếu hụt nguyên liệu trầm trọng.

Kho của Công ty ở xa cơ quan, hiện nay đang trong tình trạng xuống

cấp nghiêm trọng. Anh chị em không quản làm đêm và các ngày lễ, ngày

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022