Thực Thi Chính Sách Phát Triển Du Lịch Ở Việt Nam


phát triển du lịch tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Việt Trì, từ đó đưa ra các mặt mạnh, hạn chế trong thực thi chính sách của công chức các cơ quan chuyên môn để làm cơ sở đề xuất những giải pháp; số liệu trong đề tài được thu thập qua các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác du lịch và trao đổi với công chức phụ trách công tác du lịch.

Phương pháp thống kê mô tả: Dựa trên các thông tin số liệu mới nhất mà tác giả có thể thu thập được từ cácnguồn thông tin đáng tin cậy, từ đó phân tích và rút ra những kết quả đánh giá khách quan, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tiếp theo.

Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật, tài liệu, giáo trình và các công trình, bài viết có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Đề tài cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, bổ sung và phát triển các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến phát triển du lịch, thực thi chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ nói chung, ở thành phố Việt Trì nói riêng. Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực thi chính sách phát triển du lịch thành phố Việt Trì hiện nay.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực thi chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng thực thi chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Việt Trì giai đoạn 2015 - 2019

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản tăng cường thực thi chính sách phát triển du lịch thành phố Việt Trì tới năm 2025


Thực thi chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ - 3

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM


1.1. Chính sách phát triển du lịch

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan

1.1.1.1. Du lịch

Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tornos” - mang nghĩa đi một vòng. Về sau, thuật ngữ “tornos” được dịch sang tiếng Latinh là “tornus” và tiếng Pháp là “tour” có nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi.

Khái niệm du lịch đầu tiên được phát biểu tại Anh năm 1811: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữ lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. Như vậy, du lịch ban đầu có thể được hiểu là đi đến một địa điểm mới để tìm kiếm sự thư giãn, vui vẻ.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, “Du lịch được hiểu là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến không phải là nơi làm việc của họ”.

Khoản 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 quy định: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá một năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.

Luận văn sử dụng định nghĩa của Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 để triển khai nghiên cứu. Có nhiều loại hình du lịch khác nhau, tùy theo cách phân chia. Theo môi trường tài nguyên, hoạt động du lịch được chia làm hai nhóm lớn là du lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên. Du lịch văn hóa là khi


hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn. Du lịch thiên nhiên diễn ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về với thiên nhiên của con người (như du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông thôn...) [23, tr.63]. Ngoài cách phân loại như trên, phân loại theo mục đích hoạt động du lịch thì có thể có du lịch giải trí, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng, hoặc du lịch kết hợp với các hoạt động khác... Có thể thấy rằng, với các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng yêu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí... thì nhắc đến hoạt động du lịch người ta cũng thường coi đó là ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt như: Nâng cao nhận thức về tự nhiên, về lịch sử, văn hóa, đất nước, con người; hiệu quả về mặt kinh tế... Chính vì vậy, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển. Ở Việt Nam, trước đổi mới, du lịch được coi là một hoạt động văn hóa xã hội thuần túy, sau đó, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội, từ năm 1986, du lịch được coi là một ngành kinh tế của Việt Nam.

Với tư cách một ngành nghề kinh doanh, hoạt động du lịch, một mặt, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm cho các khu vực có điểm du lịch, tạo sự trao đổi giao lưu văn hóa… Mặt khác, cũng tạo nguy cơ ô nhiễm môi trường; sự phai nhạt bản sắc văn hóa của các cộng đồng có nhiều du khách đến thăm, sự quá tải về cơ sở hạ tầng… Chính vì lý do đó, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển.

1.1.1.2. Khách du lịch

Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2017, “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp với đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Theo đó, với những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ dưới 24 giờ cũng được coi là khách du lịch.


Theo điều 10, chương II, Luật Du lịch 2017, khách du lịch được phân thành khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài.

“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”. “Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch. “Khách du lịch ra nước ngoài là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”.

1.1.1.3. Phát triển du lịch

Phát triển du lịch là một tất yếu khách quan, gắn với quá trình phát triển của đời sống KT - XH và con người bởi khi con người đã thỏa mãn nhất định nhu cầu ăn, mặc, ở, họ có thời gian rảnh rỗi và có điều kiện đi đây đi đó để cảm nhận được vẻ đẹp của các vùng đất, các nền văn hóa khác nhau...

Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó, Nghị quyết khẳng định, phát triển du lịch đã, đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam [5,tr.1].

Như vậy có thể nhận thấy, phát triển du lịch là sự phát triển, một mặt, đáp ứng các yêu cầu về kinh tế - xã hội; mặt khác là đảm bảo việc bảo vệ môi trường. Đây là điều mà ngày nay người ta hay gọi là sự phát triển du lịch bền vững - sự phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến khả năng phát triển du lịch trong tương lai.

Điều 4, Luật Du lịch năm 2017 quy định nguyên tắc phát triển du lịch như sau:


“1. Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm.

2. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng.

3. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.

5. Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối xử bình đẳng đối với khách du lịch”.

1.1.2. Chính sách phát triển du lịch

1.1.2.1. Chính sách

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...” [31,tr.475].

Cụm từ “chính sách” khi gắn việc thực hiện chức năng, vai trò của nhà nước được gọi là chính sách công. Thuật ngữ “chính sách” sử dụng trong luận văn này được hiểu là chính sách công. Theo đó, chủ thể ban hành chính sách, mục đích tác động của chính sách và vấn đề chính sách hướng tới giải quyết đều gắn với chủ thể ban hành của nó, đó là Nhà nước.

1.1.2.2. Chính sách phát triển du lịch

Chính sách phát triển du lịch là sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng bằng những quyết định, quy định của Nhà nước nhằm giải quyết các


vấn đề trong phát triển du lịch; qua đó, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển du lịch của đất nước nói chung; các vùng miền, lĩnh vực du lịch nói riêng.

Khi đề cập đến chính sách phát triển du lịch, chúng ta thường đề cập đến các nội dung cơ bản sau:

Phạm vi và đối tượng của chính sách phát triển du lịch

Chính sách phát triển du lịch được Nhà nước ban hành hướng đến giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch Việt Nam. Khi chính sách được ban hành sẽ có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự phát triển du lịch trong phạm vi toàn quốc hoặc ở những phạm vi vùng miền, lĩnh vực.

Mục tiêu của chính sách phát triển du lịch

Về cơ bản, việc đề ra chính sách phát triển du lịch, ngoài thực hiện một mục tiêu cụ thể nào đó thì cần đạt được mục tiêu chung là phát triển du lịch Việt Nam. Do đó, để thực hiện được mục tiêu chung, trước hết chính sách phát triển du lịch cần đạt được mục tiêu cụ thể. Điều này có nghĩa là, việc đề ra và thực hiện chính sách du lịch, dù ở phạm vi vi mô, thì cũng cần có sự thống nhất với các chính sách phát triển du lịch chung khác, với các chính sách khác, để tránh trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Giải pháp của chính sách phát triển du lịch

Trên cơ sở mục tiêu của chính sách phát triển du lịch, Nhà nước cũng đưa ra các giải pháp để đạt được mục tiêu chính sách trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian và các nguồn lực cần thiết. Tuy nhiên, vì mục tiêu của chính sách phát triển du lịch thể hiện ở các cấp độ khác nhau nên các giải pháp của chính sách phát triển du lịch cũng được điều chỉnh và cụ thể hóa cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chính sách.


Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển du lịch

Trên cơ sở mục tiêu và giải pháp đã được xác định, các nguyên tắc chỉ đạo được thực hiện mục tiêu sẽ được xây dựng. Nguyên tắc chỉ đạo có vai trò quan trọng nhằm hiện thực hóa các chính sách và đảm bảo việc thực hiện chính sách thành công.

Nguồn lực thực hiện chính sách phát triển du lịch

Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì chính sách sẽ không thể thực hiện được một cách hiệu quả nếu như nguồn lực thực hiện chính sách không được tính toán một cách chính xác, kỹ lưỡng. Nguồn lực ở đây có thể là nhân lực, cũng có thể là tài chính.

Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch

Cần xác định cụ thể đâu là cơ quan, cá nhân quản lý việc thực hiện chính sách phát triển du lịch và đâu là cơ quan, cá nhân triển khai các hoạt động cụ thể của chính sách này.

Thời gian triển khai chính sách phát triển du lịch

Bất cứ chính sách nào cũng phải xác định phạm vi thời gian. Có những chính sách dài hạn, có chính sách ngắn hạn, hoặc trung hạn. Trên cơ sở xác định phạm vi thời gian, chúng ta sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện hợp lý.

1.2. Thực thi chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam

1.2.1. Khái niệm thực thi chính sách phát triển du lịch

Thực thi chính sách phát triển du lịch là toàn bộ quá trình đưa chính sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch đối với những đối tượng cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định. Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đảm bảo tuân theo chu trình thực hiện chính sách nói chung.


1.2.2. Các chủ thể tham gia vào công tác thực thi chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam

Thứ nhất, chủ thể tham gia thực thi chính sách phát triển du lịch:

HĐND các cấp: Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND các cấp xem xét các dự án chính sách trong đó có chính sách phát triển du lịch mà UBND trình, triển khai nghiên cứu và hiện thực hóa thành Nghị quyết của HĐND.

UBND các cấp: Với vị trí là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, UBND vừa là cơ quan ban hành chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực thi chính sách phát triển du lịch ở địa phương. UBND ban hành Quyết định cụ thể hóa Nghị quyết của HĐND.

Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện: Với vị trí là cơ quan tham mưu cho UBND, các Sở, ban ngành theo sự phân công, phối hợp theo quy định, trình UBND thành phố đề án, chương trình, kế hoạch phát triển du lịch.

Thứ hai, chủ thể tham gia phối hợp thực thi chính sách phát triển du lịch:

Các tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vận động quần chúng nhân dân tham gia vào thực thi chính sách phát triển du lịch một cách tích cực; nâng cao sự tin tưởng của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong đó có niềm tin vào việc xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách phát triển du lịch.

Các hiệp hội nghề nghiệp - xã hội du lịch: Hiệp hội Du lịch Việt Nam và các hiệp hội du lịch ở các tỉnh, thành phố chính là cầu nối của cơ quan quản lý du lịch xuống các đơn vị doanh nghiệp; giúp cho việc triển khai thực thi chính sách phát triển du lịch được diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 10/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí