Đúng vậy, tại địa bàn miền núi của huyện Bắc Trà My – nơi có gần 2/3 số xã trong huyện thuộc vùng khó khăn, đất đai cằn cỗi, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, kỹ thuật canh tác còn nhiều hạn chế; và do huyện có địa hình chia cắt hiểm trở dẫn đến nhiều trở ngại cho việc sắp xếp dân cư cũng như khó khăn đi lại; trường học, trạm y tế tại nhiều nơi rất sơ sài, xuống cấp gây nhiều khó khăn trong bảo đảm chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Việc các nhóm địa phương của tộc người cư trú ở khu vực có địa hình chia cắt hiểm trở/ vị trí cô lập, là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến một loạt các hệ lụy, tập quán lạc hậu như: kết hôn cận huyết thống, tảo hôn, sinh con tại nhà…
Sáu là, tại huyện Bắc Trà My hiện nay có nhiều nhà làng đã được bê tông hóa, lợp tôn (không còn giữ nguyên trạng “hồn cốt”), làm mất đi vẻ đẹp xưa cũ và vô hồn.
Một trong các minh chứng xác thực: tại hai xã Trà Nú, Trà Kót (huyện Bắc Trà My) với phần lớn các nhà làng đã được làm theo kiến trúc hiện đại với sàn bằng gỗ, vách gỗ, mái lợp tôn, đỉnh cao vút theo kiểu nhà làng ở Tây Nguyên hoặc nhà làng của đồng bào dân tộc phía Bắc. Kết cấu khung, sườn, mái nhà, sàn...xuất hiện nhiều mô típ, họa tiết mới, không đại diện cho quan niệm thẩm mỹ và nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào dân tộc tại chỗ; nhiều hình vẽ, điêu khắc trang trí bên trong mất tính nghiêm trang, không tương xứng với một nơi thể hiện tính tín ngưỡng tâm linh sinh hoạt cộng đồng[43]. Bên cạnh vướng mắc trở ngại khiến nhà làng đang đứng trước nguy cơ biến dạng, đó là tình trạng khan hiếm vật liệu tự nhiên, nguyên vật liệu gỗ, mây rừng đã không còn như trước; thì vướng mắc trong việc bảo tồn nhà làng của đồng bào tộc người thiểu số bản địa không hoàn toàn do thiếu kinh phí, mà còn do nguyên nhân chính là đang có sự thiếu hụt những nghệ nhân điêu khắc lớn tuổi có tay nghề am hiểu văn hóa dân tộc bản địa là điều đáng lo ngại, vì chính những hình ảnh trang trí bên trong ngôi nhà sẽ tạo nên
cái hồn và bản sắc bên trong của ngôi nhà đó (Theo ông Hồ Trọng Hải - Trưởng Phòng Văn hóa Thông tin huyện Bắc Trà My cho biết[43]).
Hơn nữa, ở huyện Bắc Trà My, ngoài dân tộc Xê đăng còn giữ bản sắc của mình thì các dân tộc như Cor, Cadong … dường như đã mất bản sắc, nhà làng chỉ còn lại như một nhà sinh hoạt cộng đồng đơn thuần. Mô hình nhà dài 3,4,5 gian hầu như không còn do chủ trương tách hộ để hưởng hộ nghèo. Ngoài ra, ở một số nơi không ít nhà làng truyền thống đã bị xuống cấp hư hại do không có kinh phí sửa chữa.[43]
Bảy là, nhiều huyện vùng miền núi của Quảng Nam có điều kiện kinh tế phát triển như thị trấn, thị tứ… thì đa số trẻ em, con em đồng bào DTTS chủ yếu giao tiếp bằng tiếng phổ thông mà ít tiếp xúc với tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ của tộc người bản địa), nhất là không biết đến chữ viết của tộc người địa phương mình đã trở nên khá phổ biến.
Nói cách khác, ngôn ngữ của các tộc người bản địa ở vùng miền núi của Quảng Nam đang gặp thách thức. Hiện nay, tại Quảng Nam (bao hàm cả Bắc Trà My) có đến 30-40% con em ở địa phương sinh ra là không biết tiếng mẹ đẻ[20]. Hậu quả từ việc chính quyền chưa quan tâm đúng mức, cũng như thiếu sâu sát trong công tác văn hóa dân tộc trước đây khiến nhiều thế hệ trẻ miền núi “quên” dần tiếng mẹ đẻ và chữ viết của đồng bào mình. Trong đó, lỗi phần lớn là ở gia đình và cộng đồng, điều này rất dễ thấy ở các thị trấn, vùng có điều kiện kinh tế phát triển (theo Ông Đinh Mươk - nguyên Trưởng ban Dân tộc tỉnh Quảng Nam cho biết[20]). Điều này khiến cho trẻ mất dần vốn văn hóa truyền thống tộc người.
Tám là, hiện nay các làng miền núi với vốn liếng văn hóa từ trang phục, chữ viết, tiếng nói… đang đối diện một thực trạng mai một dần. Một số nơi bị “đồng bằng hóa” hoàn toàn từ nhà ở cho đến nhà làng, trang phục cho đến tiếng nói. Ngay cả việc phục dựng lễ hội, đặc biệt là các lễ hội đâm trâu thì nay người dân không muốn làm. Thậm chí cả những ngày lễ hội, với sắc phục độc đáo nhất của đồng bào mình cũng vẫn bị lai tạp.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Chung Về Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Ở Tỉnh Quảng
- Một Số Đặc Trưng Chung Của Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Ở Tỉnh Quảng Nam
- Một Số Vấn Đề Thực Tiễn Đặt Ra Trong Thực Hiện Chính Sách Bảo Tồn Và Phát Triển Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Ở Huyện Bắc Trà My, Tỉnh Quảng Nam
- Giải Pháp Về Hoạt Động Của Địa Phương Khi Hiện Thực Hoá Các Chính Sách Bảo Tồn Và Phát Triển Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Ở Huyện Bắc Trà My,
- Thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam - 11
- Thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam - 12
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
Dẫn chứng cho thấy, tại nhiều địa phương hiện nay, từ Xê Đăng, Bh’noong, Ca Dong đều mặc trang phục na ná nhau, và học theo đủ thứ kiểu hoa văn của các dân tộc khác, thậm chí từ Tây Bắc, Tây Nguyên.
Chín là, văn hóa dân gian, đặc biệt là văn hóa phi vật thể của các tộc người thiểu số chủ yếu được lưu giữ trong trí nhớ của con người theo phương pháp truyền miệng, truyền nghề. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng như những tác động của kinh tế thị trường, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các cộng đồng DTTS ở Bắc Trà My đang bị ảnh hưởng. Nguy cơ mai một của di sản văn hóa các tộc người thiểu số là ngày càng rõ rệt.
Mười là, việc thực thi chính sách chưa có sự chú ý đúng mức đến việc tái lập các điều kiện và đặc điểm môi trường sống và sinh kế phù hợp cho cộng đồng các tộc người thiểu số.
Minh chứng cho thấy, với việc triển khai quá nóng các dự án thủy điện ở nhiều năm qua trên địa bàn huyện Bắc Trà My, mà điển hình là dự án thủy điện Sông Tranh 2 (190MW), khiến cho hầu hết hệ thống rừng phòng hộ bị thu hẹp nhanh chóng. Thực tế này đã gây ra nhiều tác động không mong muốn về môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế - xã hội của vùng đồng bào thiểu số, trong đó đặt ra khó khăn lớn về môi trường sinh kế và thách thức việc giữ gìn bản sắc văn hóa của cộng đồng các tộc người bản địa ở Bắc Trà My. Vấn đề bất cập lớn ở chỗ là do quy hoạch tái định cư Công trình thủy điện Sông Tranh 2 chưa hoàn toàn phù hợp, vì thiếu sự kết nối giữa tái định cư, tộc người và phát triển, làm cho các hoạt động, nguồn sinh kế và khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên của tộc người thiểu số tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, trong quy hoạch thì mức độ ưu tiên của dự án dành cho các hoạt động không thuộc lĩnh vực kinh tế như: xã hội, văn hóa, môi trường còn rất thấp. Bản sắc văn hóa và phong tục tập quán của cộng đồng tộc người di dời bị thách thức nghiêm trọng bởi nguy cơ mai một. Lẽ ra quy hoạch chi tiết các khu tái định cư dành cho cộng đồng tộc người bản địa phải đảm bảo tính đặc thù riêng, song lại không được tính đến
62
yếu tố tộc người làm căn cứ (do có sự xem nhẹ tham vấn cộng đồng sở tại); mà thay vào đó áp quy hoạch tái định cư nhà ở bằng các dãy nhà ở quy mô nhỏ liền kề nhau (theo kiểu nhà ở người Kinh), chia theo từng hộ gia đình nhỏ lẻ nên không phù hợp với phong tục, tập quán sinh sống của đồng bào (tập quán định cư xây dựng nhà ở, tập quán sinh hoạt, nghề nghiệp và cách ứng xử với môi trường xung quanh của cộng đồng tộc người, mà ngay cả việc tổ chức không gian sinh hoạt văn hóa bản sắc của cộng đồng tộc người không được chú trọng đúng mức). Hiện trạng này khiến cho người dân ít sử dụng nhà tái định cư, mà tự phát đi khai thác gỗ để xây dựng thêm kiểu nhà truyền thống bên cạnh để ở là phổ biến. Đặc biệt, là tình trạng thiếu đất sản xuất đã diễn ra do xuất phát từ hạn chế trong quy hoạch, khảo sát, đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nhân văn, nhất là quỹ đất và nguồn nước; mặc dù thời gian qua đã được điều chỉnh nhiều lần nhưng khi đưa dân đến tái định cư thì vẫn thiếu các điều kiện tối thiểu là đất và nước. Kết quả cũng được ghi nhận từ Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi đi giám sát tại địa phương cho biết[41]: Ở 9 điểm TĐC của thủy điện Sông Tranh 2 (Quảng Nam) bố trí dân về nơi không có điều kiện sản xuất, cụ thể vẫn còn 130 hộ chưa có đất sản xuất. Nói cách khác, những gì các dự án TĐC công trình thủy điện đóng trên địa bàn huyện Bắc Trà My chỉ tập trung chủ yếu vào xây dựng nhà ở mới, còn rất nhiều vấn đề kinh tế - đất sản xuất, giáo dục, y tế, không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng... cho người dân thì chưa được quan tâm theo chiều sâu.
Mười một là, nhiều nơi trên địa bàn huyện Bắc Trà My, bà con dân tộc thiểu số rất thiếu đất ở gắn với đất sản xuất, nhất là khu vực xã Trà Bui nơi có công trình thủy điện Sông Tranh 2 đóng trên địa bàn này. Cơ sở hạ tầng khó khăn nên các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp của bà con khó tiêu thụ, bị ép giá.
Thu nhập đời sống người dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My vẫn đang còn khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo của huyện 33,64% (tính đến cuối năm
2019) là còn cao, trong số đó đáng báo động là xã Trà Giác hộ nghèo hiện chiếm đến 64,08%, nhất là ở thôn 2 và thôn 3 có hộ nghèo nhiều (trong đó chỉ có 8 hộ nghèo diện chính sách người có công; còn lại có đến hơn 400 hộ nghèo cần tác động giảm nghèo)[42]. Dù các mô hình trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả cũng không biết bán sản phẩm đi đâu, vì Trà Giác không có đường đi để thông thương với bên ngoài.
Với các vấn đề bất cập đặt ra trong thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn các DTTS ở huyện Bắc Trà My đòi hỏi nhiệm vụ bảo vệ khẩn cấp bản sắc văn hóa đồng bào DTTS là yêu cầu cấp thiết.
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở giới thiệu những nét chung về các DTTS ở tỉnh Quảng Nam, chương này phân tích rõ một số đặc trưng chung của văn hóa các DTTS ở tỉnh Quảng Nam; và khái quát những nét chính của văn hóa các DTTS ở huyện Bắc Trà My. Thông qua đó, nội dung chương 2 nghiên cứu tập trung phân tích cụ thể về thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn các DTTS ở huyện Bắc Trà My, giai đoạn 2015- 2020: (1) Công tác ban hành văn bản chính sách bảo tồn và phát triển văn các DTTS của tỉnh Quảng Nam và huyện Bắc Trà My; (2) Thực tiễn kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn các DTTS ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015- 2020; (3) Tập trung phân tích đánh giá rõ các vấn đề thực tiễn đặt ra trong thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn các DTTS ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, cụ thể là mười một vấn đề bất cập đặt ra trong thực hiện chính sách này. Qua đó, kết quả chương 2 cung cấp luận cứ thực tiễn để đề xuất giải pháp và kiến nghị hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS ở huyện Bắc Trà My hiện nay.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam hiện nay
Một là, việc hoạch định và đổi mới chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số cần phải có sự đồng hành của hệ thống chính trị các cấp, phải tiến hành theo quy trình “đi từ dưới lên” dựa trên sự suy tính khoa học và đặc điểm thực tiễn của địa bàn: tránh kiểu chỉ đạo một chiều, tránh tình trạng áp đặt từ trên xuống dưới (trên ép xuống).
Nên nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải bắt đầu ngay từ giai đoạn tiền kế hoạch cần được thiết kế chu đáo tính đến điều kiện tự nhiên, yếu tố đặc thù tộc người và trình độ dân trí. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoạch định chính sách này là cần đẩy mạnh thực hiện chương trình tham vấn cộng đồng thiết thực; xác lập và chú trọng cơ chế dân chủ, cơ chế tham vấn, phản hồi của cộng đồng dân cư các tộc người thiểu số trên địa bàn, nhằm gia tăng vai trò, trách nhiệm tham gia của cộng đồng người dân vùng dự án. Theo hướng này có thể luật hóa nội dung bằng quy định bổ sung. Đồng thời, cần chú trọng đầu tư tiến hành các nghiên cứu xã hội học để nắm vững nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng, phong tục, tập quán, lối sống và thực trạng sinh kế của cộng đồng DTTS để bảo đảm an sinh xã hội.
Hai là, mặc dù các tộc người thiểu số tuy có sự khác biệt về phong tục tập quán, song điểm chung là môi trường cư trú sinh sống, nhất là môi trường rừng (rừng cộng đồng) – một yếu tố vẫn đóng vai trò hệ trọng đối với sự tồn
tại và phát triển bền vững đời sống cộng đồng tộc người thiểu số. Đây là điểm cần lưu ý phải hạch toán trên cơ sở các giá trị luật tục và tính đặc trưng của mỗi cộng đồng tộc người để lồng ghép vào trong hoạch định chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số (chứ không nên và không thể áp dụng quan điểm chung cho tất cả các dân tộc). Theo đó, cần phải rút bài học kinh nghiệm sâu sắc để không lặp lại sai lầm, như trường hợp của dự án tái định cư từ dự án công trình thủy điện Sông Tranh 2 triển khai tại xã Trà Bui do áp đặt quy hoạch tái định cư nhà ở bằng các dãy nhà ở quy mô nhỏ liền kề nhau theo kiểu nhà ở người Kinh, chia theo từng hộ gia đình nhỏ lẻ nên không phù hợp với phong tục, tập quán sinh sống của đồng bào.
Thay vào đó, để giải quyết bài toán quy hoạch mà ở đó có quy hoạch tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với các dự án thủy điện/ hoặc các chương trình dự án sản xuất năng lượng liên quan đến, thì yêu cầu việc thiết lập các quy định đổi mới trong chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải cẩn trọng đối với tính chất và đặc điểm của công trình thủy điện/ dự án sản xuất năng lượng được xây dựng chủ yếu ở địa bàn khu vực miền núi, vùng cao vốn dĩ là nơi cư trú nhiều đồng bào DTTS đang sinh sống theo cộng đồng và có phong tục tập quán canh tác, văn hóa truyền thống đa dạng. Yêu cầu thiết đặt ra là phải bắt buộc rà soát lại đánh giá cả hai mặt tác động (tác động môi trường và tác động xã hội của dự án) đối với bất kỳ công trình dự án nào; nếu không/ xem nhẹ thì việc thu hồi đất làm nảy sinh rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho các hoạt động sinh kế về khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên của tộc người thiểu số tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (vì thiếu đất sản xuất trong khi phương án thực hiện chuyển đổi nghề trong tái định cư không khả thi), mai một bản sắc văn hoá và tranh chấp tài nguyên liên quan đến người dân có đất bị thu hồi... Nên đối với huyện Bắc Trà My (liên quan đến vấn đề thu hồi đất - tái định cư các cộng
66
đồng tộc người để triển khai vận hành dự án công trình thủy điện Sông Tranh 2), cần chú ý quá trình hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải đáp ứng yêu cầu kết nối được trục tái định cư – đặc điểm tộc người – phát triển.
Nói cách khác, khi triển khai các dự án, chương trình kinh tế - xã hội trên địa bàn có đông đồng bào tộc người thiểu số sinh sống bị ảnh hưởng, thì không được phép bỏ qua quy định tham vấn từ cộng đồng sở tại hoặc chỉ vì đơn thuần đó là dự án kinh tế đã duyệt mà bất chấp.
Ba là, để hoàn thiện hệ thống chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số cần chú trọng gắn kết đồng bộ với việc triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, song phải dựa trên cách tiếp cận trao quyền cho cộng đồng tộc người thiểu số, phải xác định lấy yếu tố gốc là phát huy văn hóa bản địa của cộng đồng; chứ không nên chỉ thuần túy đáp ứng nhu cầu đời sống kinh tế mà bất chấp. Ở trường hợp huyện Bắc Trà My, việc xây dựng nông thôn mới phải trên cơ sở gắn kết xây dựng không gian văn hóa nhằm bảo tồn các làng văn hóa thuần tộc Cadong, Xêđăng, Cor.
Nói cách khác, trong xây dựng nông thôn mới phải chú trọng gắn kết thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể. Qua đó, từng bước hướng đến sự phát triển toàn diện, gắn kết cộng đồng để bảo tồn bản sắc truyền thống.
Bốn là, đổi mới chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải hướng vào xác lập cơ chế, chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực làm công tác bảo tồn văn hóa, chăm lo đời sống họ nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ những người làm công tác bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc sống được bằng nghề và chuyên tâm trong công tác.
Do nguồn nhân lực tại chỗ là đội ngũ những nghệ nhân người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My hiện còn ít và phần lớn họ đã lớn
67