Công Tác Thực Hiện Chính Sách Trợ Cấp Thất Nghiệp


BHTN thì vừa vừa không phát triển được đối tượng tham gia BHTN, vừa tạo kẽ hở chính sách. Người sử dụng lao động và NLĐ có thể “lách luật”, dừng ký HĐLĐ để chuyển sang thỏa thuận bằng hình thức khác để ngừng đóng hoặc trốn đóng BHTN.

2.4.2.3. Công tác thực hiện chính sách trợ cấp thất nghiệp

Chưa kiểm tra, kiểm soát được việc NLĐ vừa hưởng TCTN vừa đi làm, vừa hưởng TCTN vừa hưởng chế độ hưu trí do chưa có cơ sở dữ liệu đồng bộ giữa thu và chi BHTN, giữa cơ sở dữ liệu chi TCTN và cơ sở dữ liệu chi hưu trí. Đây là khó khăn lớn trong công tác quản lý chi trả TCTN.

Ngoài ra còn phải nói đến việc thu, chi BHTN do BHXH tỉnh thực hiện nhưng việc thụ lý hồ sơ, ra quyết định chi trả BHTN là do Sở LĐTBXH, Trung tâm DVVL thực hiện. Cách làm đó gây ra chồng chéo, chưa thống nhất, sự kết nối còn lỏng lẻo dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm hoặc không thực hiện trách nhiệm theo quy định pháp luật trong thực hiện chế độ BHTN cho NLĐ hoặc làm phát sinh tiêu cực do chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu chi, điều kiện chi trả ... Ngay trong cơ quan BHXH tỉnh sự kết nối giữa các bộ phận thu và bộ phận chi BNTN vẫn chưa thật sự chặt chẽ nên dẫn đến tình trạng nhiều NLĐ trong quá trình hưởng TCTN vẫn tiếp tục đi làm và đóng BHTN và chốt sai thời gian đóng BHTN.

2.4.2.4. Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề

Hoạt động hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề chưa được thực hiện tốt. Công tác tư vấn việc làm chưa đạt được hiệu quả cao do kỹ năng tư vấn của cán bộ Trung tâm DVVL chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ tư vấn chưa được đào tạo chuyên sâu (chủ yếu tự đào tạo tại Trung tâm). Số lượng cán bộ chưa đủ để tổ chức tư vấn việc làm, tư vấn học nghề trực tiếp cho NLĐ, do đó chưa nắm bắt hết được nhu cầu việc làm. Tỉnh Hải Dương đang thực hiện mô hình hành chính công một cửa, NLĐ nộp hồ sơ hưởng TCTN tại Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh (cán bộ tiếp nhận hồ sơ không phải là cán bộ của Trung tâm DVVL) do đó NLĐ không được tư vấn ban đầu khi tới nộp hồ sơ, gây khó khăn cho công tác tư vấn, giới thiệu việc làm cũng như giải quyết hồ sơ hưởng TCTN .


Số người được hỗ trợ học nghề thấp, (2,62% so với số người có quyết định hưởng TCTN), chất lượng đào tạo nghề chưa cao. Người sử dụng lao động khó tiếp cận với chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề để duy trì việc làm cho NLĐ do các điều kiện để được hỗ trợ quá chặt chẽ, ít xảy ra.

Hoạt động thu thập, phân tích, dự báo thông tin thị trường lao động, nhất là dữ liệu việc làm trống để phục vụ công tác hỗ trợ đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho NLĐ thất nghiệp trên địa bàn tỉnh chưa chủ động, hiệu quả. Các đơn vị sử dụng lao động không nhiệt tình phối hợp với Trung tâm DVVL tỉnh trong công tác tuyển dụng lao động. Chỉ đề nghị Trung tâm thông tin giúp việc làm trống với mức thu nhập thấp, đãi ngộ kém mà doanh nghiệp không tự tuyển dụng được.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Thông tin về việc làm trống chưa được bổ sung, cập nhật kịp thời do cơ sở dữ liệu về thị trường lao động hiện chưa hoàn chỉnh, chuyên sâu, phản ảnh không chính xác và kịp thời tình hình địa phương. Các nguồn dữ liệu việc làm trống phân tán, chưa được tổng hợp, theo dõi, cập nhật. Mặt khác, các đơn vị sử dụng lao động không thực hiện thông báo số lao động ban đầu và khai báo biến động lao động (100% doanh nghiệp không thực hiện thông báo số lao động ban đầu và chỉ 0,1% doanh nghiệp khai báo biến động lao động); việc theo dõi, cập nhật thông tin việc làm trống để cung cấp khi tư vấn hoặc theo dõi NLĐ được giới thiệu việc làm đều thực hiện theo phương pháp thủ công, chưa có phần mềm hỗ trợ khiến công tác thu thập dữ liệu việc làm trống của Trung tâm DVVL tỉnh không hiệu quả.

2.4.2.5. Công tác giám sát, kiểm tra

Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương - 12

Hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế do chức năng thanh tra chuyên ngành của cơ quan BHXH chưa được triển khai thực hiện, trong khi đó, công tác phối hợp liên ngành để thanh tra, kiểm tra tại các đơn vị còn chưa được thường xuyên do lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra còn mỏng ...

Việc tổ chức tự kiểm tra, giám sát công tác thực hiện chính sách BHTN trong chính các cơ quan chịu trách nhiệm QLNN và thực hiện chính sách BHTN trong tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu. Vẫn còn để xảy ra tình trạng gian lận, trục lợi


trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHTN làm ảnh hưởng đến hiệu quả, mục tiêu của chính sách.

2.4.2.6. Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm thất nghiệp

Việc tổ chức thực hiện BHTN do hai ngành lao động và BHXH cùng thực hiện mà chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa giải quyết các chế độ cùng với việc chi trả BHTN dẫn đến một số khó khăn như: Phát sinh khối lượng công việc và kinh phí trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, đặc biệt là phát sinh các khâu trung gian từ giải quyết đến chi trả các chế độ BHTN. Mặt khác, không kịp thời phát hiện và ngăn chặn khi có hành vi gian lận, trục lợi quỹ BHTN của NLĐ và NSDLĐ.

Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHTN của ngành LĐTBXH không phải là hệ thống ngành dọc nên tính liên kết của hệ thống yếu dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách và hỗ trợ các đối tượng thụ hưởng. Trung tâm DVVL tỉnh tổ chức thực hiện chính sách dưới sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ LĐTBXH (Cục Việc làm) nhưng lại trực thuộc Sở LĐTBXH tỉnh, do đó trong quá trình thực hiện chính sách vẫn phải chịu sự tác động của chính quyền địa phương.

Trung tâm DVVL tỉnh tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng TCTN, hỗ trợ học nghề nhưng việc ban hành quyết định thuộc thẩm quyền của Giám đốc Sở LĐTBXH dẫn đến bị quá tải về khối lượng công việc. Đồng thời, quy định này không tạo sự chủ động cho Trung tâm DVVL khi thực hiện chính sách BHTN.

Nhân sự thực hiện chính sách BHTN tại Trung tâm DVVL còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng. Từ năm 2011 đến nay, số định suất lao động thực hiện BHTN không được bổ sung, trong khi số NLĐ đề nghị hưởng các chế độ BHTN ngày càng tăng dẫn đến khối lượng công việc quá tải. Để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, Trung tâm DVVL tỉnh phải bổ sung nhân sự hợp đồng. Số nhân sự này chưa được xác định trong chỉ tiêu biên chế nên Trung tâm gặp khó khăn trong việc bổ nhiệm, bố trí, sử dụng, “giữ chân” cán bộ. Hơn nữa nhân sự thực hiện chính sách BHTN không được tiếp cận các chế độ học tập nâng cao trình độ và các chế độ đãi ngộ khác đối với viên chức; chưa có quy định về tiêu chuẩn vị trí việc làm theo


chức danh nghề nghiệp dẫn đến tâm lý dao động bởi vị trí việc làm bấp bênh và không có hướng phát triển sự nghiệp, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách.

2.4.2.7. Cơ chế tài chính

Quỹ BHTN chưa hỗ trợ đầy đủ các chế độ và việc triển khai thực hiện chính sách BHTN. Chi từ quỹ BHTN tại Trung tâm DVVL hiện nay mới chỉ dùng để chi tiền lương, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương và chi quản lý hành chính. Chưa đáp ứng đủ cho các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, đặc biệt là hoạt động thu thập, phân tích, dự báo thị trường lao động và cung cấp thông tin về thị trường lao động. Luật Việc làm 2013 đã có quy định về chi cho hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm từ nguồn quỹ BHTN, tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể về việc chi để thực hiện chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm đối với NLĐ nên việc thực hiện nội dung này cùng với các hoạt động thông tin thị trường lao động, dạy nghề vẫn được đảm bảo thông qua việc chi trả lương đối với nhân sự tại Trung tâm.

Kinh phí chi quản lý BHTN mới chỉ đáp ứng được chi thường xuyên và một số hoạt động chuyên môn của Trung tâm DVVL, đối với các hoạt động mua sắm, sửa chữa tài sản về cơ bản chưa đủ đáp ứng nhu cầu, nhất là trong hoạt động mở rộng, sửa chữa, cải tạo trụ sở làm việc và các trang thiết bị tin học, văn phòng.

2.4.2.8. Việc ứng dụng công nghệ thông tin còn nhiều khó khăn, bất cập

Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống máy chủ cũ; đường truyền kết nối internet thấp, không có phương án dự phòng, tính bảo mật thấp, chưa đáp ứng được khả năng cung cấp khi có phát sinh nhu cầu truy cập trung bình hoặc lớn.

Dữ liệu tập trung tại máy chủ đặt tại Bộ LĐTBXH (Cục Việc làm) dẫn đến khi có sự cố hoặc bảo trì thì tất cả các địa phương đều không sử dụng được. Khả năng xử lý dữ liệu, xử lý thông tin không đáp ứng được nhu cầu thực tế cũng như triển khai dịch vụ công trực tuyến.

Trung tâm DVVL chưa có hệ thống phần mềm thống nhất quản lý, điều hành hoạt động các hoạt động. Chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu việc làm trống, cơ sở dữ liệu người tìm việc, cơ sở dữ liệu dạy nghề, số hóa hồ sơ BHTN nên chưa tạo


điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, tra cứu và khai thác hồ sơ, đội ngũ nhân sự công nghệ thông tin còn thiếu và yếu.

Chưa có phương án thống nhất, kế hoạch cụ thể về kết nối dữ liệu, chia sẻ thông tin và quy chế phối hợp liên ngành lao động, BHXH, thuế, tài chính ... về BHTN và các dữ liệu khác có liên quan. Các thông tin tra cứu giữa Trung tâm DVVL và BHXH tỉnh mới chỉ dừng lại ở một số thông tin cơ bản của NLĐ, chưa tra cứu được thông tin về quá trình đóng BHTN, mốc thời gian đóng BHXH để biết về tình trạng việc làm, lương bình quân 06 tháng của NLĐ trước khi chốt sổ BHXH. Trung tâm DVVL không thể tra cứu, lấy thông tin thông tin từ BHXH để phục vụ cho việc tiếp nhận và giải quyết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ trong việc hưởng các chế độ BHTN, giảm bớt thủ tục hành chính và kiểm tra, kiểm soát kịp thời các bước thực hiện chính sách tránh tình trạng gian lận, trục lợi quỹ BHTN.

2.4.2.9. Một số hạn chế, tồn tại khác

Hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn chính sách BHTN đã hướng dẫn khá đầy đủ cụ thể để tổ chức thực hiện chính sách, tuy nhiên một số nội dung trong các mẫu biểu chưa rõ ràng, cụ thể; chưa có quy định cụ thể về thành phần hồ sơ BHTN cần lưu trữ, thời gian lưu trữ hồ sơ, trang thiết bị lưu trữ, bảo quản … để Trung tâm DVVL thực hiện công tác lưu trữ thống nhất, đồng bộ dẫn đến việc lưu trữ hồ sơ BHTN quá tải.

Người lao động làm việc ở ngoài tỉnh khi chấm dứt HĐLĐ về địa phương nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN do không cần giấy xác nhận như trước đây nên không được kiểm tra hồ sơ ban đầu. Vì vậy, khi đến Trung tâm DVVL tỉnh nộp hồ sơ mới phát hiện có sai sót phải quay trở lại nơi làm việc trước đó làm thủ tục bổ sung mất nhiều thời gian, thậm chí có trường hợp NLĐ không hoàn thiện được hồ sơ hưởng TCTN.

Quy định về khai báo tình trạng việc làm hàng tháng đối với NLĐ đang hưởng TCTN phụ thuộc vào sự trung thực của NLĐ. Do vậy, có trường hợp tìm được việc làm nhưng vẫn kê khai chưa có việc làm để hưởng TCTN. Người lao động đang


hưởng TCTN có việc làm mới, nhưng nhiều trường hợp không đến Trung tâm DVVL tỉnh thông báo về tình trạng việc làm đúng quy định trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày HĐLĐ có hiệu lực do NSDLĐ trả HĐLĐ muộn dẫn đến việc lao động vừa hưởng TCTN vừa tham gia BHTN.

Việc chi trả TCTN được thực hiện trả theo tháng. Tuy nhiên chế độ TCTN chi theo ngày, nên NLĐ thường nhận được TCTN chậm hơn so với quy định, chưa hỗ trợ kịp thời NLĐ để ổn định cuộc sống trong thời gian tìm việc làm mới.

Số lao động đến đề nghị hưởng TCTN lần 2, 3 ... trong quá trình kiểm tra hồ sơ, Trung tâm DVVL phát hiện lao động có thời gian hưởng TCTN lần trước trùng với thời gian có việc làm. Khi yêu cầu NLĐ cung cấp HĐLĐ để làm căn cứ thu hồi TCTN thì một số trường hợp không còn HĐLĐ để làm thủ tục thu hồi, đặc biệt đối với lao động đang làm việc ở tỉnh ngoài. Việc thu hồi tiền TCTN đối với lao động thất nghiệp hưởng sai quy định gặp nhiều khó khăn do NLĐ chuyển nơi ở, làm việc ở tỉnh ngoài, đi du học hoặc không tự giác đến cơ quan BHXH nộp tiền.

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế

2.4.3.1. Nguyên nhân từ cơ chế chính sách của nhà nước

Trước năm 2015, chính sách BHTN được quy định trong Luật BHXH, đây là một chính sách mới lần đầu tiên được áp dụng, có liên quan đến rất nhiều ngành, nhiều cơ quan tham gia vào việc ban hành các văn bản hướng dẫn do đó không tránh khỏi việc các văn bản hướng dẫn còn có sự chồng chéo về nội dung và thiếu tính hệ thống, chậm về thời gian. Từ năm 2015, chính sách BHTN được điều chỉnh theo Luật Việc làm 2013, tình trạng chậm ban hành các văn bản hướng dẫn vẫn tiếp tục xảy ra. Luật Việc làm 2013 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2015 nhưng đến ngày 12/3/2015, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 28/2015/NĐ - CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN và đến tận ngày 31/7/2015 Bộ LĐTBXH mới ban hành Thông tư số 28/2015/TT - LĐTBXH hướng dẫn thực hiện Điều 52 của Luật Việc làm và một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ - CP. Do đó các cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện chính sách BHTN bị động trong việc hướng dẫn thực hiện, lúng túng


trong công tác thu, phát triển đối tượng, giải quyết các chế độ BHTN cho NLĐ tại thời điểm giao thời giữa hai giai đoạn.

Thẩm quyền thanh tra, xử phạt hành chính mới được giao cho cơ quan BHXH thực hiện từ năm 2016 nhưng việc triển khai thực hiện phải trải qua nhiều khâu, mất thời gian và chế tài xử phạt chưa đủ mạnh để răn đe, mức xử phạt hành chính quá thấp (cao nhất là 30 triệu đồng) nên chưa đạt hiệu quả cao. Mặc dù hiện nay, Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung các chế tài và nâng mức xử phạt hành chính (cao nhất là 75 triệu đồng) đối với hành vi vi phạm nhưng vẫn chưa thực sự đủ mạnh nên nhiều doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động vẫn cố tình nợ đóng hoặc kéo dài thời gian nợ để chiếm dụng tiền đóng BHTN của NLĐ làm vốn kinh doanh.

2.4.3.2. Nguyên nhân từ tình hình kinh tế vĩ mô

Khủng hoảng ở một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực lao động - việc làm. Đến đầu năm 2015, tình hình kinh tế xã hội vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa được giải quyết. Các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam đa phần cũng đang gặp khó khăn, tăng trưởng chậm làm thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp do vậy ảnh hưởng xấu đến hoạt động SXKD và đời sống dân cư trong nước. Nhiều doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân sự, đẩy NLĐ vào tình trạng thất nghiệp.

2.4.3.3. Nguyên nhân từ cơ quan quản lý, tổ chức thực hiện chính sách ở Trung ương

Trong quá trình triển khai chính sách, Bộ LĐTBXH và BHXH Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn nhưng những văn bản hướng dẫn đó chưa bao quát được hết những yêu cầu đặt ra của công tác quản lý. Các quy trình đã được triển khai trên thực tiễn khi phát sinh khó khăn, vướng mắc chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời. Bảo hiểm xã hội Việt Nam chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu chung


về thu BHTN của các địa phương. Cơ sở dữ liệu thu, chi còn tách rời chưa liên kết với nhau dẫn đến tình trạng trùng hưởng, trùng đóng; hệ thống phần mềm quản lý và cơ sở dữ liệu giữa hai ngành lao động và BHXH không được kết nối, liên thông gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện chính sách.

2.4.3.4. Nguyên nhân từ các cơ quan quản lý, tổ chức thực hiện chính sách ở địa phương

Công tác phối hợp giữa cơ quan BHXH, Sở LĐTBXH, Trung tâm DVVL tỉnh chưa thực sự đồng bộ, nhịp nhàng nên vẫn còn nhiều hạn chế trong thực hiện nghiệp vụ. Công tác chi trả TCTN, tư vấn hỗ trợ học nghề, giới thiệu việc làm còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của NLĐ và mục tiêu chính sách. Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ cán bộ hạn chế do không được đào tạo bài bản, chuyên sâu, chưa có nhiều kinh nghiệm trong triển khai thực hiện chính sách BHTN.

2.4.3.5. Nguyên nhân từ phía người thất nghiệp

Khó khăn nhất trong công tác quản lý BHTN đó là quản lý NLĐ thất nghiệp. Tình trạng NLĐ chủ động thôi việc để nộp hồ sơ hưởng TCTN diễn ra khá nhiều đã làm cho công tác quản lý BHTN khó khăn hơn. Ngoài ra do “lỗ hổng” của các quy định đóng và chi BHTN (mức đóng thấp, mức hưởng cao) nên NLĐ lạm dụng chính sách BHTN để hưởng lợi. Nhận thức của một số NLĐ còn hạn chế, nhiều người chưa hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình, chưa biết điều kiện để được hưởng các chế độ của chính sách BHTN.

2.4.3.6. Nguyên nhân từ phía người sử dụng lao động

Do khó khăn về tài chính, việc vay vốn ngân hàng phải chịu lãi suất cao nên nhiều đơn vị sử dụng lao động trích tiền lương của NLĐ để đóng BHXH, BHYT và BHTN nhưng không nộp cho cơ quan BHXH mà để lại làm vốn kinh doanh. Điều này dẫn đến việc không thực hiện được các chế độ BHTN đối với lao động tại các đơn vị đó. Ý thức tuân thủ pháp luật và trách nhiệm xã hội của một số NSDLĐ còn kém, không ít trường hợp NSDLĐ và NLĐ bắt tay nhau trục lợi chế độ BHTN.

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 04/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí