sẽ thu hút đầu tư nước ngoài vào nước này mạnh mẽ. Thứ hai, quy mô du lịch nước ngoài đến nước chủ nhà. Các tác giả đã dẫn chứng rằng so với kinh doanh du lịch nội địa ở Trung Quốc, kinh doanh du lịch ở nước ngoài có tỷ suất lợi nhuận cao hơn đối với các doanh nghiệp Trung Quốc. Một lượng lớn khách du lịch đến nước sở tại từ Trung Quốc có nghĩa là có một cơ sở tốt để điều hành kinh doanh du lịch nước ngoài tại quốc gia đó. Do đó, số lượng khách du lịch từ Trung Quốc đến nước sở tại được chọn là một trong những tiêu chí quan trọng để thu hút các nhà đầu tư kinh doanh du lịch đầu tư từ Trung Quốc đến nước sở tại. Thứ ba, quy mô kinh tế du lịch. Theo các tác giả thì việc tìm kiếm thị trường là một trong những lý do chính của đầu tư du lịch ra bên ngoài. Do đó, quy mô kinh tế du lịch của nước chủ nhà sẽ đại diện cho quy mô thị trường của du lịch của đất nước, nó có thể sẽ ảnh hưởng đến quyết định của các công ty nước ngoài đầu tư vào ngành du lịch. Khi có quy mô thị trường lớn ở nước chủ nhà và mức độ tiêu dùng du lịch cao, khả năng thu được lợi nhuận thông qua đầu tư vào ngành du lịch của nước chủ nhà có thể được đảm bảo thì mức độ thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào phát triển du lịch sẽ tăng lên. Thứ tư, cấp độ thương mại và đầu tư giữa quốc gia đầu tư và quốc gia nhận đầu tư vào du lịch. Các tác giả cho rằng có một mối quan hệ bổ sung và thay thế giữa thương mại và đầu tư. Nhiều doanh nghiệp đầu tư du lịch là các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng, xây dựng, bất động sản.. để phát triển kinh doanh họ đẩy mạnh các hoạt động thương mại và lấy du lịch làm kinh doanh phụ trợ.
1.1.2. Nghiên cứu vai trò của nhà nước trong thu hút đầu tư vào phát triển du lịch
Có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong thu hút đầu tư vào phát triển du lịch. Các nghiên cứu này tập trung về vai trò xây dựng và thực thi chính sách thu hút đầu tư vào du lịch.
- Bài viết “The Role of the Government in Promoting Tourism Investment in Selected Mediterranean Countries - Implications for the Republic of Croatia” (Vai trò của chính phủ trong khuyến khích đầu tư vào du lịch ở một số quốc gia Địa Trung Hải – Vận dụng cho cộng hòa Croatia) của tác giả Ivo Kunst [97]. Bài viết đã chỉ ra vai trò của chính phủ trong việc khuyến khích đầu tư vào du lịch ở các quốc gia có ngành du lịch phát triển tại vùng Địa Trung Hải như Malta, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo tác giả, vai trò của chính phủ trong việc thu hút đầu tư vào du lịch thể hiện ở những nội dung sau: (1) Ban hành khung khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư vào kinh
doanh du lịch. Trong đó có pháp luật đầu tư vào du lịch, các quy định hướng dẫn các nhà đầu tư vào du lịch, các chính sách ưu đãi cụ thể đối với các nhà đầu tư vào du lịch. (2) Lập quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết và kế hoạch phát triển du lịch theo các bản quy hoạch đó. (3) Sau khi xác định các khu vực theo quy hoạch phù hợp với các dự án phát triển du lịch, các cơ quan của chính phủ thực hiện điều chỉnh và kiểm soát sự phát triển của các khu vực đó thông qua quy hoạch chi tiết và quy hoạch tổng thể. (4) Trong trường hợp đặc biệt, chính phủ thực hiện đầu tư công trực tiếp vào kết cấu hạ tầng các khu vực phát triển du lịch còn chủ yếu là chính phủ đóng vai trò của một cơ quan hướng dẫn, quản lý và kiểm soát đầu tư phát triển du lịch; (5) Chính phủ quy định rõ chính sách về đất đai đối với đầu tư kinh doanh du lịch. Đất mà chính phủ dự kiến phát triển du lịch được bán cho các nhà đầu tư kinh doanh du lịch (Ai Cập, Malta) hoặc được cấp bằng hợp đồng nhượng quyền dài hạn (Thổ Nhĩ Kỳ, Malta), sau khi hết hạn hợp đồng, tất cả cơ sở vật chất đã đầu tư đó trở thành tài sản của chính phủ.
- Bài viết “The role of government in planning tourism development in Macedonia” (Vai trò của chính phủ trong việc xây dựng kế hoạch phát triển du lịch ở Macedonia) của Biljana Petrevska [102]. Trong bài viết này tác giả đã nêu rõ vai trò của chính phủ trong việc xây dựng kế hoạch phát triển du lịch. Tác giả cho rằng du lịch là một ngành có thể không tự phát triển, do đó, cần phải áp dụng một số hình thức can thiệp của nhà nước. Về mặt này, sự can thiệp của nhà nước vào du lịch có nghĩa là sự tham gia trực tiếp của chính phủ vào thị trường du lịch. Điều này có thể được thực hiện theo hai cách: Đầu tiên là phân bổ vốn có chọn lọc, có nghĩa là sự can thiệp vào thị trường du lịch của chính phủ với tư cách là một tổ chức tài chính đầu tư vốn vào những nơi có tiềm năng phát triển du lịch. Cách tiếp cận thứ hai là kiểm soát trực tiếp đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nếu đầu tư phát triển du lịch nằm ngoài tầm kiểm soát. Vì vậy, chính phủ phải can thiệp theo định hướng tích cực là đầu tư của doanh nghiệp phải theo quy hoạch tổng thể và chi tiết của chính phủ, theo những hướng dẫn của nhà nước khi đầu tư, không gây tác động xấu đến các vấn đề xã hội và môi trường.
- Bài viết: “Exploring tourist spots for promoting investments in tourism industry of Bangladesh” (khai thác điểm du lịch để thúc đẩy đầu tư trong ngành du lịch Bangladesh) của tác giả Mohammad Shamsuddoha và Marilena-Oana Nedelea
[100]. Các tác giả nêu rõ vai trò của chính phủ trong việc đầu tư phát triển du lịch. Dẫn chứng của các tác giả là chính phủ Bangladesh đã đầu tư vào hãng hàng không Biman nhưng không chủ yếu đầu tư vào du lịch nhưng hãng hàng không này lại trở thành nhân tố đóng góp quan trọng cho sự gia tăng của khách du lịch vào quốc gia này. Cùng với việc đầu tư phục hồi và phát triển các sân bay nội địa, chính phủ Bangladesh hỗ trợ cho tham vọng phát triển du lịch, đặc biệt là các khoản đầu tư vào hãng vận tải quốc gia. Tầm quan trọng của đầu tư của Chính phủ vào khách sạn và hãng hàng không là cung cấp hạt giống ban đầu để khởi động các hoạt động đầu tư vượt quá khả năng của khu vực tư nhân ở một quốc gia nghèo khó.
- Bài viết “Governmental responses to tourism development: three Brazilian case studies” (Phản ứng của chính phủ đối với phát triển du lịch: nghiên cứu ba trường hợp ở Brazil) của Jose Antonio Puppim de Oliveira [103]. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến sự can thiệp của chính phủ thông qua quy hoạch và quản lý môi trường. Mặc dù rất khó tách biệt tác động môi trường của các hoạt động liên quan đến du lịch khỏi tác động của các hoạt động khác, nhưng toàn bộ ngành du lịch chắc chắn có một tập hợp các tác động môi trường tích cực và tiêu cực đến xã hội. Do đó, các biện pháp can thiệp của chính phủ vào phát triển du lịch nhằm đảm bảo mức độ tác động tiêu cực tối thiểu và tác động tích cực tối đa cho xã hội.
1.1.3. Nghiên cứu chính sách thu hút đầu tư vào phát triển du lịch
Có thể bạn quan tâm!
- Thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào phát triển du lịch ở tỉnh Nghệ An - 1
- Thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào phát triển du lịch ở tỉnh Nghệ An - 2
- Các Công Trình Liên Quan Đến Thu Hút Đầu Tư Của Doanh Nghiệp Vào Phát Triển Du Lịch Tỉnh Nghệ An
- Khái Niệm, Đặc Điểm Và Vai Trò Của Thu Hút Đầu Tư Của Doanh Nghiệp Vào Phát Triển Du Lịch Ở Cấp Tỉnh
- Vai Trò Thu Hút Đầu Tư Của Doanh Nghiệp Vào Phát Triển Du Lịch Cấp Tỉnh
Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.
- Bài viết “Private enterprise in Mexican tourism” (Doanh nghiệp tư nhân trong du lịch ở Mêhicô) của Liên đoàn phòng thương mại, dịch vụ và du lịch quốc gia Mêhicô [95]. Bài viết đã đề cập đến chính sách thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển du lịch và những chính sách mà chính phủ Mêhicô ban hành để thu hút đầu tư phát triển du lịch. Để có thể hình thành những cơ sở du lịch, chính phủ Mêhicô đã ban hành chương trình hành động để quảng bá, xúc tiến đầu tư của doanh nghiệp tư nhân vào du lịch. Trong chương trình hành động này, chính phủ đã đề xuất với tổng thống Mehicô là phát triển vận tải hàng không, bổ sung các tuyến hàng không đến các trung tâm du lịch và các tuyến vận tải hàng không mới. Tiếp đó là đề xuất xây dựng các trạm dịch vụ xăng dầu có vị trí chiến lược để khuyến khích du lịch đường cao tốc. Việc cải thiện vận tải hàng không và đường biển đã được Bộ truyền thông và vận tải thực hiện và nếu biên giới Mexico có giao thông thuận lợi, chính phủ Mexico có thể làm tăng đáng kể lượng khách là những người đến từ các bang miền nam Hoa Kỳ.
Chính phủ Mêhicô cũng thiết lập các chương trình đào tạo nhân lực trong ngành du lich bao gồm các khóa học về các chủ đề như lập kế hoạch và phát triển sản phẩm du lịch, quảng bá du lịch, tiếp thị du lịch và hoạch định chiến lược của ngành, kiểm soát chi phí và cung cấp thực phẩm và đồ uống trong nhà hàng, kế toán khách sạn, kỹ thuật chờ bàn, tiếp tân và dọn phòng và nhiều hoạt động khác trong dịch vụ du lịch. Chính phủ quan tâm giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến vai trò của mình mà các nhà cung cấp dịch vụ và tổ chức du lịch yêu cầu.
- Công trình “ASEAN Tourism Investment Guide” (Hướng dẫn đầu tư vào du lịch ASEAN) của Tổ chức du lịch quốc gia ASEAN [94]. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu rõ các chính sách thu hút đầu tư của các nước ASEAN vào phát triển du lịch để kêu gọi các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào du lịch của các nước này. Tác giả đề cập đến chính sách thu hút đầu tư vào du lịch ở những nước có hoạt động du lịch phát triển và hiệu quả như Maylaysia, Thái Lan. Đối với Maylaysia chính sách thu hút đầu tư phát triển du lịch là thúc đẩy cả FDI và đầu tư trong nước (DI) vào phát triển du lịch. Một số chính sách chúng ta có thể thấy rõ sự ưu đãi và ràng buộc của chính phủ Malaysia như chính sách ưu đãi tài chính và thuế. Đầu tư lần đầu được miễn thuế 70% thu nhập theo luật định trong 5 năm. Thời gian miễn thuế bắt đầu từ ngày hoạt động được xác định bởi Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp (MITI) Malaysia. Các khách sạn 1-3 sao và dự án du lịch đủ điều kiện được nhận ưu đãi như: i) Khấu trừ kép về chi phí phát sinh cho các hoạt động quảng cáo ở nước ngoài. ii) Khấu trừ kép về chi phí phát sinh khi tham gia hội chợ thương mại quốc tế đã được phê duyệt tại Malaysia. iii) Miễn thuế cho các công ty lữ hành. Các nhà điều hành tour du lịch có giấy phép mang lại ít nhất 500 khách du lịch nước ngoài trong một năm sẽ được miễn thuế đối với thu nhập có được từ việc kinh doanh điều hành các tour. Miễn thuế đối với thu nhập kiếm được từ việc tổ chức các gói tour du lịch trong nước cho ít nhất
1.200 khách du lịch địa phương mỗi năm. Miễn thuế đối với thu nhập kiếm được từ việc thúc đẩy các hội nghị quốc tế hoặc tổ chức các triển lãm thương mại quốc tế đã được phê duyệt tại Malaysia. Miễn thuế tiêu thụ đặc biệt khi mua xe sản xuất trong nước cho người điều hành dịch vụ cho thuê xe và miễn thuế tiêu thụ đặc biệt 50% cho xe 4WD lắp ráp tại địa phương cho công ty lữ hành.
Đối với Thái Lan, chính sách thu hút đầu tư vẫn là nền tảng cho sự thành công về thu hút đầu tư. Chính phủ Thái Lan đã thiết lập các nguồn lực để hỗ trợ các nhà
đầu tư. Thông qua Hội đồng Đầu tư (BOI), chính phủ đã đưa ra một loạt các ưu đãi thuế, dịch vụ hỗ trợ và giảm thuế thuế nhập khẩu cho doanh nghiệp đối với những lĩnh vực ưu tiên như du lịch. Tuy nhiên, tùy từng dự án đầu tư cụ thể mà BOI có chính sách ưu đãi cụ thể, ví dụ: đối với dự án đầu tư du lịch cho thuê thuyền hoặc du thuyền sẽ được giảm 50% thuế nhập khẩu đối với máy móc và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 5 năm, bất kể khu vực.
1.2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực tiễn thu hút đầu tư phát triển du lịch
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu du lịch”, của tác giả Lê Văn Minh [35]. Đề tài đã nêu lên kinh nghiệm thực tiễn đầu tư phát triển các khu du lịch của các nước Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia. Đề tài đã đánh giá thực trạng về hệ thống các cơ chế, chính sách của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực đầu tư du lịch, các cơ chế chính sách liên quan đến phát triển du lịch, thực trạng về công tác đầu tư phát triển các khu du lịch ở Việt Nam trong đó nêu rõ thực trạng về đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch, thực trạng về đầu tư hạ tầng ở các khu du lịch, đầu tư phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao, đầu tư phát triển ở các khu du lịch được lựa chọn nghiên cứu và đưa ra đánh giá chung về thực trạng đầu tư phát triển các khu du lịch. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất 10 giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đầu tư, trong đó có: Giải pháp xây dựng, quản lý và thực hiện quy hoạch các khu du lịch; Giải pháp về quyền sử dụng đất đai ở các khu du lịch; Giải pháp về huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển khu du lịch; Giải pháp về cơ chế, chính sách tài chính, thuế trong đầu tư phát triển các khu du lịch; Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính; Giải pháp hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng tham gia phát triển các khu du lịch; Giải pháp về đầu tư, bảo tồn, tôn tạo các giá trị tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Tổng quan hệ thống chính sách phát triển du lịch Việt Nam” của tác giả Hồ Thị Kim Thoa [65]. Đề tài đã hệ thống hóa các chính sách phát triển du lịch Việt Nam, trong đó có chính sách thu hút đầu tư vào du lịch. Phân tích những mặt còn hạn chế của các chính sách đối với phát triển du lịch. Trên cơ sở đó, đề tài đã đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển du lịch Việt Nam trong thời gian tới.
- Đề tài nghiên cứu khoa học:“Cơ sở khoa học phát triển du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ” của tác giả Phạm Trung Lương [34]. Đề tài đã tập trung đánh giá vị trí và vai trò của du lịch đảo ven bờ trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ và trong phát triển du lịch. Phân tích thực trạng phát triển du lịch trên các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ, xác định những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch đảo ven bờ ở khu vực ven biển vùng du lịch Bắc Trung Bộ.
Đề tài đã đưa ra các giải pháp đảm bảo sự phát triển du lịch đảo bền vững, bao gồm nhiều nhóm giải pháp, trong đó một số nhóm giải pháp về thu hút đầu tư phát triển du lịch như: (1) Nhóm giải pháp về chính sách; (2) Nhóm giải pháp về quy hoạch; (3) Nhóm giải pháp về đầu tư.
- Báo cáo “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [6]. Nội dung Báo cáo đã tập trung vào một số vấn đề như đánh giá thực trạng phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ; xác định cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch của vùng. Trên cơ sở đưa ra quan điểm, mục tiêu và dự báo các chỉ tiêu phát triển du lịch, đã đưa ra một số định hướng phát triển trong đó đặt ra định hướng thu hút đầu tư phát triển du lịch. Báo cáo cũng đà đề xuất các giải pháp và tổ chức thực hiện quy hoạch, trong đó có các nhóm giải pháp như: nhóm giải pháp đầu tư và huy động vốn đầu tư, giải pháp phát triển nguồn nhân lực; xúc tiến, quảng bá; tổ chức, quản lý; ứng dụng KH - CN; liên kết vùng và hợp tác quốc tế; bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch vùng và ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển quốc gia tại vùng Du lịch Bắc Trung Bộ” của Nguyễn Thu Hạnh [24]. Đề tài đã xây dựng cơ sở lý luận về phát triển khu du lịch biển; Nêu lên kinh nghiệm phát triển của một số khu du lịch quốc gia biển trên thế giới. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển các khu du lịch biển tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ, xác định những khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển các khu du lịch biển ở đây, đề tài đã đề xuất giải pháp phát triển các khu du lịch biển tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ đến năm 2020, trong đó có giải pháp về thu hút đầu tư phát triển các khu du lịch biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ.
- Bài viết “Một số giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển du lịch tỉnh Ninh
Thuận” của tác giả Lê Thị Thanh Thủy [66]. Bài viết đã nêu lên một số thành tựu về
huy động vốn đầu tư của tỉnh Ninh Thuận thời gian qua và chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong huy động nguồn vốn phát triển ngành du lịch.
Bài viết đã đưa ra các giải pháp để tăng cường huy động vốn đầu tư phát triển du lịch Ninh Thuận trong thời gian tới là: (1) Đổi mới chính sách và thúc đẩy huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển hạ tầng du lịch như huy động hợp lý nguồn thu thuế, phí và lệ phí; thực hiện tốt pháp lệnh thực hành tiết kiệm, phân bổ nguồn vốn ngân sách hợp lý, quản lý chặt chẽ nguồn chi; Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, khắc phục tình trạng lạc hậu yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung, hạ tầng du lịch nói riêng… 2) Huy động vốn đầu tư từ doanh nghiệp du lịch. Giải pháp này được thực hiện bằng cách nhanh chóng xây dựng và ban hành quy hoạch chi tiết các khu du lịch trong tỉnh làm cơ sở định hướng cho các nhà đầu tư. Chuẩn bị tốt các điều kiện về đất đai, hạ tầng, hỗ trợ tiến hành nhanh chóng việc đền bù, giải tỏa, giao đất sạch cho các nhà đầu tư thực hiện dự án. Thực hiện các chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế, về vốn tín dụng, về quyền sử dụng đất, về cơ sở hạ tầng, về đào tạo lao động cho doanh nghiệp… (3) Huy động vốn đầu tư từ nguồn vốn đâu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)… (4) Tăng cường huy động vốn tín dụng. Ngoài một số giải pháp trên cần thực hiện các giải pháp khác để hỗ trợ huy động vốn phát triển du lịch như đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tac quy hoạch phát triển du lịch, đẩy mạnh xúc tiến quảng bá du lịch, hợp tác liên kết vùng, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để thu hút đầu tư; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch.
- Bài viết “Một số nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào du lịch tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Phạm Quế Anh [2]. Trong bài viết này tác giả đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào du lịch tỉnh Quảng Ninh đó là: (1) Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. (2) Tiềm năng phát triển du lịch, bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh. (3) Tốc độ tăng trưởng kinh tế. (4) Hệ thống cơ sở hạ tầng hỗ trợ đầu tư. (5) Lợi thế so sánh của tỉnh. Tác giả cho rằng để tận dụng được các lợi thế nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư vào du lịch tỉnh Quảng Ninh đòi hỏi phải có sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước (trung ương và địa phương) trong đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và định hướng thu hút đầu tư vào du lịch của tỉnh theo hướng: Một là, nghiên cứu, xây dựng, đề xuất cơ chế, chính sách phát triển đột phá ngành du lịch;
Hai là, ban hành các quy định đối với các tiêu chuẩn chất lượng và bảo vệ môi trường của tàu du lịch, tiêu chuẩn, chứng chỉ hành nghề của đội ngũ nhân viên phục vụ trên tàu du lịch, khách sạn, nhà hàng… để đảm bảo tính chuyên nghiệp và chất lượng cao. Ba là, Quy định về quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước đối với quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, quy hoạch vùng, quy hoạch các khu, điểm du lịch và quy hoạch từng dự án cụ thể. Năm là, bổ sung nhân lực và các điều kiện vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương. Sáu là, chú trọng tổ chức, sắp xếp lực lượng thanh tra du lịch đủ mạnh để làm tốt thanh tra trong lĩnh vực du lịch. Bảy là, tăng cường quản lý và tổ chức có hiệu quả các hoạt động kinh doanh lữ hành, tăng cường quản lý và tổ chức hiệu quả các hoạt động kinh doanh các cơ sở lưu trú, hoạt động kinh doanh ăn uống, kinh doanh các khu, điểm du lịch, các loại hình vui chơi giải trí. Bảy là, tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý du lịch, xây dựng và sử dụng có hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu ngành du lịch phục vụ công tác quản lý và hoạch định chính sách; triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành quản lý chất lượng dịch vụ du lịch theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Bài viết “Giải pháp khai thác nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch tỉnh Lâm Đồng” của tác giả Nguyễn Tấn Vinh [92]. Bài viết đã nêu bật những điểm mạnh của tỉnh Lâm Đồng và kinh nghiệm của tỉnh Lâm Đồng nhằm phát huy và khai thác được lợi thế về tài nguyên, khí hậu, cảnh quan môi trường.
Bài viết đã đặt ra vấn đề là để Lâm Đồng thực hiện được định hướng phát triển du lịch, điểm mấu chốt là khai thác được nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp để khai thác được nguồn vốn đầu tư của các nhà nhà đầu tư đã đăng ký hoặc sẽ đăng ký vào lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nhằm tạo điều kiện để các nhà đầu tư tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ đầu tư và sớm đưa dự án vào khai thác kinh doanh từng phần hoặc toàn bộ dự án.
- Bài viết “Quảng Bình: Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch” của tác giả Dương Nhật Huy [32]. Bài viết đã nêu những kết quả đạt được về thu hút đầu tư của tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2007 – 2013. Tuy nhiên, so với tiềm năng thì kết quả đạt được trên lĩnh vực du lịch của tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân