Thị trường tài chính Phần 1 - ThS. Lý Vân Phi Chủ biên - 2

Không chỉ với các chủ thể riêng biệt, mà cả với các khoản đầu tư của nhà nước và chính phủ, thị trường tài chính cũng phát huy một vai trò hỗ trợ các công cụ vay vốn như phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ. Việc vay nợ trên thị trường tài chính thay cho biện pháp phát hành thêm tiền có thể kiềm chế lạm phát và tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập của mỗi quốc gia. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia mua bán chứng khoán. Qua đó có thể huy động một bộ phận quan trọng các ngườn lực tài chính từ bên ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.

Chính vì vậy thị trường tài chính góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế. Nên thị trường tài chính nếu hoạt động có hiệu quả tất yếu sẽ tận dụng được các nguồn lực trong nước và ngoài nước một cách cao nhất để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, thị trường tài chính tạo môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế.

Giá cả trên thị trường tài chính được hình thành trên quy luật cung cầu, nó dung hòa quyền lợi của các chủ thể. Nếu tồn tại sự thiên lệch về lợi ích của một cá nhân hay chủ thể nào đó, thị trường tài chính sẽ điều chỉnh về mức cân bằng trong thời gian rất ngắn. Do đó nếu thiếu thị trường tài chính hoặc thị trường tài chính kém phát triển, giá cả sẽ không phản ảnh chính xác quan hệ cung cầu và lợi ích của các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính sẽ không được đảm bảo.

Thứ ba, thị trường tài chính là công cụ xác định giá thị trường của doanh nghiệp

Sở dĩ thị trường tài chính thể hiện được chức năng này là do khi định giá mua bán chứng khoán trên thị trường, các chủ thể giao dịch sẽ đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp. Đây chính là thước đo xác định lại giá trị của doanh nghiệp bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Do đó giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường thể hiện sự đồng thuận của thị trường về giá trị của doanh nghiệp đó. Hơn nữa sự biến động giá cổ phiếu trên thị trường chính là công cụ đo lường sức khỏe của từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.

Chính nhờ vai trò này của thị trường tài chính mà nhà đầu tư có phương hướng đầu tư rõ ràng, người quản ký doanh nghiệp có cơ sở để đưa ra những quyết sách cho doanh nghiệp trong tương lai, và cả chính phủ sẽ có cơ sở để điều tiết nền kinh tế.

II. Phân loại thị trường tài chính

1. Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 70 trang tài liệu này.

1.1. Thị trường tiền tệ

- Khái niệm

Thị trường tài chính Phần 1 - ThS. Lý Vân Phi Chủ biên - 2

Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán các công cụ tài chính có thời gian ngắn hạn (tối đa 1 năm) như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu đã được ngân hàng chấp nhận. Theo nghĩa rộng thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tài chính và khách hàng của họ.

Chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ bao gồm các NHTM, các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính, bảo hiểm, quỹ đầu tư, các doanh nghiệp và các hộ gia đình…Tuy

nhiên tham gia tích cực và chủ yếu nhất trên thị trường này là các ngân hàng. Các ngân hàng sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư sinh lời bằng cách cho các tổ chức khác thiếu vốn tạm thời vay. Phần lớn các ngân hàng đi vay đều để duy trì khả năng thanh toán của mình. Chính vì vậy lưu hành trên thị trường tiền tệ chủ yếu là các công cụ nợ gồm: tín phiếu kho bạc, các khoản vay ngắn hạn, các thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, thương phiếu.

- Các loại thị trường tiền tệ

+ Thị trường liên ngân hàng (Interbank Market): Đây là thị trường vốn ngắn hạn giữa các NH với nhau do NHTW tổ chức để giải quyết nhu cầu vốn giữa các NHTM để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng. Nghiệp vụ mua bán được thực hiện bằng cách chuyển vốn trên tài khoản của các tổ chức tín dụng tại NHTW. Thông qua thị trường này, các nguồn ngân quỹ tạm thời dư thừa của ngân hàng này sẽ hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu cân đối ngân quỹ trong ngày do yêu cầu của tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW. Chính vì vậy mà giá cả trên thị trường này chính là “lãi suất”

+ Thị trường vốn ngắn hạn (Shorten Loans Market): Đây là thị trường tín dụng- nơi luân chuyển các nguồn vốn từ nơi dư thùa đến nơi thiếu vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Hình thức tài chính chủ yếu của thị trường này là tài chính gián tiếp thông qua các tài chính trung gian.

+ Thị trường ngoại hối (Foreign Exchange Market): Thị trường ngoại hối là thị trường diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị ngoại tệ khác. Thị trường ngoại hối được hình thành để đáp ứng như cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại.

Đây còn là công cụ để ngân hàng trung ương thực hiện các chính sách tiền tệ nhắm điều tiết nền kinh tế theo các mục tiêu cầu chính phủ. Ngoài ra các chủ thể tham gia trên thị trường này còn tìm kiếm các công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái trong quá trình trao đổi ngoại tệ, đồng thời tìm kiếm cơ hội kinh doanh với sự thay đổi của giá cả trên thị trường này chính là tỷ giá hối đoái.Các chủ thể tham gia trên thị trường này là các ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các cá nhân có nhu cầu mua bán ngoại tệ và nhà môi giới – chủ thể trung gian trong các giao dịch ngoại hối,

1.2. Thị trường vốn

- Khái niệm

Thị trường vốn hay còn gọi là thị trường vốn dài hạn. Đây là thị trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn trên 01 năm như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ và chính quyền địa phương, cổ phiếu…

Chủ thể tham gia thị trường vốn là những người cần vốn dài hạn có thể là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, ngân hàng và những người có khả năng cung ứng vốn như các hộ gia đình hoặc cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức tham gia đầu tư. Công cụ giao dịch trên thị trường là các chứng khoán dài hạn, trong đó phổ biến nhất là cổ phiếu và trái phiếu .

- Các loại thị trường vốn: Thị trường vốn bao gồm ba thị trường bộ phận:

+ Thị trường thế chấp (Mortgage market): Hoạt động trên thị trường này là các NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Đặc điểm cơ bản của thị trường này là

cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhưng đòi hỏi phải có tài sản thế chấp

+ Thị trường cho thuê tài chính (Leasing market):

Theo nghị định số 16/2001/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính, cho thuê tài chính được định nghĩa như sau: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê.”2

Theo khái niệm trên thì cho thuê tài chính được xem là một trong những loại hình tài trợ vốn dài hạn cho doanh nghiệp để đầu tư tài sản dài hạn. Đây là một trong những loại hình được áp dụng nhiều trên thế giới.

Hoạt động cho thuê tài chính có những điểm đặc trưng khác biệt so với cho thuê hoạt động thông thường như sau:

* Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê khi hết thời hạn thuê.

* Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.

* Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính.

* Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng

Với các đặc trưng như trên cho thuê tài chính thực chất là một hình thức cấp tín dụng. Khi một hợp đồng thuê tài chính được ký kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được cấp một khoản vốn. Khoản vốn này có được do doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra mua tài sản mà vẫn có tài sản sử dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số vốn tương đương giá trị tài sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty cho thuê tài chính bao gồm cả vốn gốc và lãi

Cho thuê tài chính được xem là loại hình đặc biệt của tín dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê có vai trò là nhà tài trợ vốn trung và dài hạn dưới dạng tài sản.

+ Thị trường chứng khoán (Securities market): Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán; qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.

Chứng khoán được xem là một công cụ vốn, chứng nhận quyền sở hữu của người chủ sở hữu với phần vốn góp của mình vào công ty cổ phần. Khi chứng khoán được phát hành thì tất yếu sẽ nảy sinh việc mua bán và giao dịch các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. Do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi thông qua hai thị trường trên.

2. Căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của thị trường


2 Điều 1 nghị định số 16/2001 NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

Thị trường tài chính phân làm ba loại: thị trường công cụ nợ, thị trường công cụ vốn và thị trường công cụ phái sinh.

2.1. Thị trường các công cụ nợ

Thị trường công cụ nợ là nơi mua bán, trao đổi các công cụ nợ như trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, hối phiếu. Các công cụ này đều có chung một đặc điểm là người vay vốn thanh toán cho người nắm giữ công cụ nợ một khoản tiền nhất định trong một khoảng thời gian và khi đến thời điểm đáo hạn thì thanh toán toàn bộ phần gốc. Chính vì vậy nên mối quan hệ giữa người nắm giữ các công cụ nợ và người phát hành là mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ.

Các công cụ nợ có thời gian tồn tại cụ thể, lợi tức cố định và được thanh toán theo một thời hạn đã ấn định trước. Các công cụ nợ sẽ được ưu tiên thanh toán lãi trước khi công ty chia cổ tức và trong trường hợp công ty phá sản thì chủ sở hữu sẽ được ưu tiên thanh toán vốn gốc trước công cụ vốn. Chính vì vậy việc đầu tư vào các công cụ nợ là ít gặp rủi ro.

2.2. Thị trường công cụ vốn

Thị trường công cụ vốn là thị trường mua bán các cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành. Người nắm giữ cổ phiếu được goị là cổ đông. Họ được quyền hưởng một số quyền nhất định về tài sản và vốn của công ty.

Khác với các công cụ nợ, cổ phiếu thường không có thời hạn mà tồn tại cùng với thời gian tồn tại của công ty, lợi tức của các cổ đông sẽ phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.

Việc thanh toán lợi tức của chủ sỡ hữu cổ phiếu được thực hiện cuối cùng trong quá trình phân phối cổ tức. Nếu công ty phá sản người nắm giữ cổ phiếu được chia giá trị còn lại cuối cùng.

2.3. Thị trường công cụ phái sinh

Thị trường công cụ phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh. Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất… Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai. Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo.

3. Căn cứ vào cơ cấu thị trường

3.1. Thị trường sơ cấp

Thị trường sơ cấp là thị trường tài chính giao dịch các công cụ tài chính trong lần đầu tiên, khi các tổ chức, cá nhân phát hành ra các công cụ này. Chính vì vậy người ta gọi thị trường này là thị trường các công cụ phát hành.

Thị trường này có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nói chung là huy động vốn cho các tổ chức phát hành nói riêng và cho nền kinh tế nói chung một cách trực tiếp.

3.2. Thị trường thứ cấp

Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Thị trường này không kém phần quan trọng, tạo ra tính thanh khoản cho các công cụ tài chính, nghĩa là nó tạo ra khả năng chuyển đổi từ các công cụ tài chính sang tiền mặt. Do đó, người đầu tư dễ dàng mua chúng trên thị trường sơ cấp vì họ có thể dễ dàng chuyển chúng sang tiền mặt khi cần thiết.

Thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc thay đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn sang trung và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả.

III. Các định chế tài chính trung gian

1. Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc thực hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng là đi vay và cho vay. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ tài chính quan trọng khác như thanh toán, mua bán ngoại tệ, ủy thác…

Theo điều 4, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác nhằm mục tiêu lợi nhuận.”

Trong luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định hoạt động ngân hàng như sau: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.”

Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển thị trường tài chính, cả đối với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. NHTM được ví như chiếc cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Bên cạnh đó NHTM được xem như “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp.

2. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng

2.1. Công ty tài chính

Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 01 năm

Nguồn vốn hoạt động của các công ty tài chính chủ yếu là vốn huy động, vốn đi vay. Hoạt động huy động vốn chủ yếu của công ty tài chính bao gồm: Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân theo quy định của ngân hàng nhà nước; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác; vay các tổ chức tín dụng, tài chính trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế; tiếp nhận vốn ủy thác của chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước…

Từ các nguồn vốn huy động được công ty tài chính tài trợ cho các doanh nghiệp bằng các hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn để mua máy móc thiết bị, tài trợ cho các khoản phải thu của doanh nghiệp, mua nợ của họ dưới hình thức bao thanh toán…

2.2. Công ty bảo hiểm

Công ty bảo hiểm là một tổ chức tài chính mà hoạt động chủ yếu là nhằm bảo vệ tài chính cho những người có hợp đồng bảo hiểm về những rủi ro thuộc trách nhiệm của bảo hiểm trên cơ sở những người tham gia phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.

Công ty bảo hiểm hoạt động trên cơ sở huy động vốn bằng cách bán chứng nhận bảo hiểm cho công chúng và sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư trên thị trường tài chính. Nguyên tắc hoạt động của công ty bảo hiểm là huy động sự đóng góp của nhiều người để bồi thường cho người cho một số người khác gặp tai nạn hay rủi ro.

Công ty bảo hiểm chia ra 2 nhóm là công ty bảo hiêm nhân thọ và công ty bảo hiểm phi nhân thọ:

+ Công ty bảo hiểm nhân thọ: công ty bảo hiểm nhân thọ có hai nguồn thu quan trọng nhất, đó là phí bảo hiểm và lợi nhuận do hoạt động đầu tư.

* Phí bảo hiểm từ các hợp đồng bảo hiểm: các công ty bảo hiểm bán ra các sản phẩm bảo hiểm qua việc ký kết các hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của khách hàng. Đây là nguồn thu lớn nhất, chi phối hoạt động đầu tư của công ty.

* Lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư là nguồn vốn bổ sung quan trọng. Đối với các công ty lớn hoạt động lâu năm, có vị thế trên thị trường thì nguồn thu này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty bảo hiểm.

+ Công ty bảo hiểm phi nhân thọ: là các công ty bảo hiểm về tài sản như xe cộ, nhà cửa và các phương tiện khác hoặc bảo hiểm rủi ro thường xuyên hơn đã dẫn đến lượng tiền bảo hiểm phải chi là rất cao. Do đó các công ty bảo hiểm rất ít dùng vốn đầu tư các tài sản lâu dài. Thông thương họ chỉ đầu tư vào các tài sản dễ thanh khoản cao như trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty với yêu cầu là thu nhập ổn định và dễ dàng chuyển nhượng trên thị trường.

2.3. Quỹ đầu tư

Quỹ đầu tư là một mô hình định chế tài chính trung gian tập trung những nguồn vốn nhỏ bé, lẻ tẻ của nhiều người lại để đầu tư trung và dài hạn, đặc biệt là các dự án có nhu cầu vốn lớn trong nền kinh tế quốc dân hoặc là để đầu tư vào thị trường chứng khoán.

Quỹ đầu tư đặt dưới sự quản trị chuyên nghiệp của các công ty quản lý quỹ. Quỹ này đứng ra tập hợp tiền của nhiều nhà đầu tư riêng lẻ thành một tập thể đầu tư lớn, có lợi thế hơn khi mua bán chứng khoán các loại theo quy mô. Quỹ được hình thành bởi

nhà quản trị tài chính chuyên nghiệp, chịu trách nhiệm về kinh doanh vốn hiệu quả để phân phối lợi nhuận ngược lại cho những nhà đầu tư sỡ hữu quỹ. Quỹ này đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư nhất là khả năng đa dạng hóa và trình độ chuyên nghiệp những thứ mà nhà đầu tư bình thường không thể nào có được.

Quỹ đầu tư là một dạng doanh nghiệp thuộc loại công ty cổ phần, nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động.

Quỹ đầu tư là một doanh nghiệp đặc biệt, nó không dùng vốn của mình để mua máy móc thiết bị, các yếu tố sản xuất khác để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà nó dùng vốn để đầu tư dài hạn, thông qua góp vốn liên doanh, mua cổ phần hoặc các loại chứng khoán khác với mục đích thu lợi nhuận.

Hoạt động kinh doanh của quỹ đầu tư là kinh doanh đầu tư vốn bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

+ Đầu tư trực tiếp: là việc các quỹ đầu tư dùng vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào các công ty, vào các dự án bằng cách góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.

+ Đầu tư gián tiếp: là việc các quỹ đầu tư dùng vốn của mình tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán hoặc mua đi bán lại các chứng khoán để hưởng chênh lệch giá hay nhận cổ tức của các công ty phát hành chứng khoán.

Xem bài đọc thêm một số quỹ đầu tư tại Việt Nam trang12.

2.4. Công ty cho thuê tài chính

Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoải thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê”. 3

Công ty cho thuê tài chính là một định chế tài chính chuyên cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các DN thông qua việc cho DN thuê các máy móc, trang thiết bị, bất động sản với thời gian dài hạn và tạo điều kiện cho DN sở hữu luôn tài sản đó khi kết thúc hợp đồng cho thuê.

Công ty tài chính hoạt động với ý nghĩa tài trợ vốn trung, dài hạn linh hoạt giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới tài sản cố định bắt kịp với nhịp độ phát triển khoa học kỹ thuật, duy trì năng lực sản xuất ở mức độ cao. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của công ty tài chính là phát hành các loại chứng khoán nợ, cổ phiếu hoặc vay của các ngân hàng thương mại.

- Công ty cho thuê tài chính được thực hiện các nghiệp vụ sau:

+ Cho thuê tài chính;

+ Mua và cho thuê lại các hình thức cho thuê tài chính;


3 . Điều 1, Nghị định số 16/2001/ NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

+ Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính;

+ Thực hiện các dịch vụ ủy thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính;

+ Các hoạt động khác khi được Ngân hàng nhà nước chấp nhận.

Câu hỏi ôn tập

1. Thế nào là thị trường tài chính? Phân biệt các loại thị trường sau đây: thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

2. Trình bày chức năng của thị trường tài chính. Trong các chức năng của thị trường tài chính, chức năng nào đóng vai trò quan trọng nhất ? Vì sao?

3. Phân tích vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế? Liên hệ thực tiễn với Việt Nam?

4. Trình bày sự khác biệt giữa định chế ngân hàng thương mại với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng?

5. Thế nào là tài sản tài chính? Kể tên một vài tài sản tài chính mà anh chị biết.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/12/2022