Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới - 2


1945-1985; từ 1986 đến nay. Trong đó, các bài viết về tiểu thuyết từ giai đoạn 1986 đến nay được chúng tôi chú ý. Các tác giả Đào Vũ, Khuất Quang Thụy, Hoàng Ngọc Hiến, Ma Văn Kháng, Phan Cự Đệ, Nguyễn Thị Bình, Phạm Xuân Nguyên, , Lý Hoài Thu, ... lần lượt đóng góp ý kiến về: tiểu thuyết và hiện thực; Sự thật về con người trong tiểu thuyết; Cách kể trong tiểu thuyết; Phân tích tâm lí trong tiểu thuyết; khả năng phản ánh cuộc sống và con người của tiểu thuyết....

5. Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Bình (Sưu tầm, biên soạn) (2006), Đời sống văn nghệ đầu thời đổi mới, http://www.viet-studies.info.

Hai tác giả đã sưu tầm, sắp xếp những bài viết đăng tải trên các báo từ đầu những năm đổi mới. Công trình này đặc biệt có ý nghĩa trong việc tái dựng không khí văn nghệ tại thời điểm đó, đặc biệt là những tranh luận về các tiểu thuyết thời kì đầu như: Mùa lá rụng trong vườn, Những thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng, Đám cưới không có giấy giá thú, Nỗi buồn chiến tranh, ..

2. 2 Các công trình đề cập đến phong cách tác giả.

1-Tuyết Nga (2004): Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Nxb Hội Nhà văn.

2-Hà Công Tài- Phan Diễm Phương (2002) (biên soạn): Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

3-Đỗ Đức Hiểu (2000): Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn.

4-Phùng Gia Thế (2010), Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu hiện đại.

5-Thụy Khuê (2000), Nguyễn Bình Phương, http://chimviet.free.fr

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

...

Các công trình này khảo sát những đặc điểm trong phong cách tác giả, trong đó có đề cập đến kiểu nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật. Vấn đề nhân vật chỉ là một bộ phận trong tổng thể phong cách tác giả.

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới - 2

2.3 Phê bình những tác phẩm được dư luận chú ý:

- Mùa lá rụng trong vườn (1985)

- Thời xa vắng (1986)

- Côi cút giữa cảnh đời (1989)

- Đám cưới không có giấy giá thú (1989)


- Nỗi buồn chiến tranh (1990)

- Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990)

- Đi tìm nhân vật (2002)

- Cõi người rung chuông tận thế (2002)

- Gia đình bé mọn (2006)

- Giã biệt bóng tối (2008)

...

Các tác phẩm được phê bình với nhiều ý kiến trái ngược nhau, về nhiều phương diện của tác phẩm nhưng đều thống nhất ở điểm khẳng định tiểu thuyết sau 1986 có những đột phá mới đáng kể về nghệ thuật tiểu thuyết, tính sáng tạo của chủ thể nhà văn hiện lên trong tác phẩm khá đậm nét. Trong đó, các ý kiến khá thống nhất khi đánh giá về nhân vật trong tiểu thuyết sau 1975 có sự phai giảm của yếu tố sử thi và gia tăng yếu tố tự sự đời tư; các nhân vật được đặt trên nhiều bình diện. Đồng thời các ý kiến cũng khẳng định tiểu thuyết thời kì đổi mới có sự thay đổi đáng kể về tư duy nghệ thuật: sự mất dần đi của yếu tố sử thi, thế sự-đời tư trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn, nhân vật đa dạng và phong phú, kết cấu truyện đặc biệt, trần thuật có nhiều biến đổi... Trong đó, phải kể đến việc họ đã tạo dựng được một kiểu nhân vật mới, một phương tiện mới để khám phá đời sống và con người.

Ngoài những công trình đã phân loại ở trên, còn nhiều bài viết cá nhân đăng tải trên các phương tiện cũng có đề cập đến những vấn đề liên quan đến nhiều khía cạnh của tiểu thuyết và nhân vật. Tuy nhiên, số lượng các bài viết này rất lớn, cần phải có thời gian và công sức mới có thể thống kê và phân loại một cách rõ ràng. Ở đây, chúng tôi kể đến một số bài viết có liên quan gần gũi đến đề tài.

1. Đinh Thị Huyền, Nhân vật của tiểu thuyết “Hậu chiến”. http://vienvanhoc.org

2. Phùng Gia Thế, Có hay không những dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986? http://phongdiep.net

3-Nguyễn Thị Xuân Dung (2008), Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam về


chiến tranh từ 1986 đến 1996, http://evan.com.vn

4-Bùi Thanh Truyền (2006), Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam. http://lrc.ctu.edu.vn

5-Trần Thị Mai Nhân (2006) Quan niệm về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2000 http://vienvanhoc.org

6- Trần Thị Mai Nhân (2008), Vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, http://tapchisonghuong.com.vn

.....

Mục đích chính của những công trình này không phải là nghiên cứu riêng thể loại tiểu thuyết, do đó, các bài viết nói chung mới đề cập đến một vài vấn đề liên quan đến nhân vật (hoặc quá khái quát, hoặc quá cụ thể) với tư cách là một phương diện của nghệ thuật tiểu thuyết. Vấn đề thế giới nhân vật trong tiểu thuyết thời kì đổi mới vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống thấu đáo.

3. Phạm vi nghiên cứu

- Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi tập trung khảo sát vấn đề: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Cụ thể, chúng tôi tập trung vào việc nhận diện một số kiểu dạng nhân vật cơ bản trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới (tính từ đầu những năm 80 đến nay).

- Thực tế, trong văn học đổi mới, tiểu thuyết rất phát triển, số lượng tác giả, số lượng tác phẩm rất lớn. Trong khuôn khổ của luận văn không thể khảo sát được toàn bộ tiểu thuyết giai đoạn này, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của một số tác giả: Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Phạm Thị Hoài, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Hồ Anh Thái, Chu Lai, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Dạ Ngân, Y Ban, Nguyễn Xuân Khánh, Thuận …

4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại: một số đặc điểm thi pháp tiểu thuyết.

- Phương pháp phân tích.

- Phương pháp hệ thống, tổng hợp.


- Phương pháp so sánh

5. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những tiền đề dẫn đến sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

Trong chương này người viết điểm lại những tiền đề dẫn đến sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại: Từ bối cảnh đổi mới của xã hội đến những chuyển biến của văn học và tiểu thuyết. Từ đó cho thấy sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực, con người .... đã dẫn tới những cách tân mạnh mẽ trong thế giới nhân vật tiểu thuyết tạo nên những kiểu nhân vật mới.

Chương 2: Đặc trưng thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.

Trong chương này chúng tôi khảo sát và nhận diện những đặc trưng cơ bản của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới giai đoạn này qua một số tác phẩm tiêu biểu. Từ đó cho thấy nhân vật tiểu thuyết thời kì đổi mới có những đặc trưng khác biệt so với giai đoạn trước. Con người được soi chiếu từ góc độ đời tư thế sự thay cho cách nhìn sử thi, được nhìn nhận từ nhiều góc độ với những đánh giá xác thực con người hiện diện đa dáng vẻ, đa tính cách, trong họ là sự dung chứa cả cái tốt-cái xấu; cái thiện – ác; cái cao cả-cái thấp hèn...

Chương 3: Các kiểu dạng nhân vật của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi

mới.

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới rất đa dạng và phong phú. Ở chương này, luận văn tập trung khảo sát, nhận dạng một số kiểu dạng nhân vật tiêu biểu: Nhân vật bi kịch; Nhân vật tha hóa; Nhân vật sám hối, tự thú; Nhân vật cô đơn và Nhân vật dị biệt. Trong mỗi kiểu dạng nhân vật, cùng với việc khảo sát, nhận diện, luận văn cố gắng chỉ ra một số thủ pháp xây dựng nhân vật góp phần tạo nên thành công của nhân vật.


PHẦN NỘI DUNG‌‌


Chương 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ DẪN ĐẾN SỰ ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI


1.1. Từ bối cảnh đổi mới của xã hội…

Sau đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử, hòa bình lập lại trên đất nước ta. Cuộc sống vận hành theo một quỹ đạo mới, đòi hỏi những cơ chế vận hành mới. Đại hội Đảng VI của Đảng được nhắc đến như một mốc dấu quan trọng đánh dấu sự đổi mới của đất nước trên mọi phương diện nhằm chống lại sự khủng hoảng. Tinh thần của Đại hội là đổi mới trên mọi phương diện vì đổi mới là vấn đề sống còn, tồn tại để phát triển của đất nước trong hoàn cảnh mới. Sự thay đổi diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi, trước hết trên lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một nền kinh tế khép kín, kinh tế Việt Nam mở cửa, hội nhập với thế giới. Sự thay đổi này dẫn đến rất nhiều chuyển biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Khi nền kinh tế thị trường được thiết lập, những mặt trái của nền kinh tế làm cho cuộc sống trở nên phức tạp. Nhiều giá trị, chuẩn mực đạo đức thay đổi. Xung đột giữa những giá trị tinh thần và vật chất, giữa chân thực và giả dối, tầm thường và cao thượng... diễn ra mạnh mẽ trong xã hội và bản thân mỗi con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói rằng: Cuộc sống xã hội những năm 80 có nhiều tình huống, thời khắc đậm đặc để con người bộc lộ tính cách mãnh liệt. Nhà văn Nguyễn Khải trong tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm đã nói: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy dẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ”.

Chính cuộc sống với những phức tạp là mảnh đất màu mỡ để nhà văn sáng tạo.


Ở lĩnh vực văn hóa, đầu năm 1986, Ban Bí thư ra Chỉ thị về công tác tư tưởng (15/4/1986), mở rộng dân chủ, sau đó ra Thông báo tuyên truyền trên báo chí về phê bình và tự phê bình (đợt 1: ngày 20-5-1986, đợt 2: ngày 21-6-1986). Cuối năm 1986 (tháng 12-1986), Đại hội Đảng VI được tiến hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư duy, nhận thức, trước hết ở quan niệm đề cao thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, phát huy tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, chống sức ỳ và tính bảo thủ của quan niệm cũ, mở ra một bối cảnh mới cho sự sáng tạo. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (1987) yêu cầu: Để thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có, nền văn hóa, văn nghệ nước ta phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm; văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thể hiện tiếng nói đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của sự thật, của lương tri: “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo và rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”.

Những chủ trương, chính sách của Đảng thực sự là động lực, là đòn bẩy để văn nghệ sĩ được sáng tạo với khả năng và tâm huyết của mình. Đặc biệt sự kiện cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đông đảo văn nghệ sĩ trong hai ngày (ngày 6, 7 tháng 10 năm 1987). Ở đó, các nhà văn đã phát biểu, bày tỏ mong muốn đổi mới văn nghệ và Tổng bí thư đã đề cập đến vấn đề cần có sự “cởi trói”, đổi mới thực sự cho văn nghệ. Tất cả đã tạo nên một bầu không khí sôi nổi, đặc biệt trong tranh luận các vấn đề học thuật. Hai tác giả Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình, đã và đang sưu tầm những bài viết về không khí văn nghệ đầu thời đổi mới và tập hợp đăng tải trên mạng Internet với cái tên: Đời sống văn nghệ đầu thời đổi mới. Tư liệu sưu tầm được vô cùng phong phú tái hiện không khí đặc biệt trong đời sống văn nghệ-tiền đề cho những đổi mới trong văn học. Những vấn đề cái cũ và cái mới, mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, đổi mới tư duy nghệ thuật, dân chủ là trọng tâm được bàn luận sôi nổi, kĩ lưỡng tại thời điểm đó.


Không khí cởi mở, dân chủ của đời sống xã hội, của cả nền văn nghệ đã kích thích được sự sáng tạo của văn nghệ sĩ, thực sự đã mở đường cho văn nghệ sĩ đến với những sáng tạo nghệ thuật mới mẻ.

1.2… Đến những chuyển đổi toàn diện của văn học

Không khí đổi mới đã thực sự đến với văn nghệ làm nên mùa bội thu cho hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu thuyết. Các nhà văn, các nhà nghiên cứu, phê bình sôi nổi bàn luận về những vấn đổi mới: Tư duy, hiện thực, vai trò sứ mệnh của nhà văn, cái thật trong văn học, hiện thực trong văn học... Tất cả nhằm mang đến một diện mạo mới cho văn học, khiến người đọc không quay lưng lại với văn học. Một trong những thành tựu đạt được là sự ra đời của các tiểu thuyết mang những dấu ấn độc đáo, riêng biệt, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Hà Xuân Trường cho rằng: “sự đổi mới không bao giờ tự nó đến mà phải thông qua đấu tranh” [12]. Các nhà văn nói nhiều đến “mình”, “sống hết mình trên trang giấy”, “trở về với mình để sáng tạo”, “đấu tranh với chính mình để đổi mới”, họ trực tiếp nói tới các quyền chính đáng của người cầm bút, quyền được phát hiện những vấn đề của đời sống, quyền thông tin cho bạn đọc, quyền tự do, phê bình. Nhà văn Hồ Phương nói: “đổi mới tư duy trở thành thước đo tài năng và sự cố gắng của mỗi cây bút[56]. Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: Bản chất của mọi sự đổi mới thực sự trong văn học nghệ thuật ở chỗ nó tạo ra ý nghĩa mới và giải thích rõ hơn: “thời đại chúng ta đang sống đòi hỏi một sự xác định mới ý nghĩa của nhân sinh ở nhiều mặt cốt yếu [12]. Lê Lựu thẳng thắn bộc bạch: Nếu nhà văn cảm thấy không có gì mới trong tư tưởng, trong nhận thức thì đừng có viết, vì khi ấy những gì viết ra sẽ bằng thừa, chúng sẽ nhạt nhẽo và không có ích. Sự đổi mới chuyển hóa thành nhân cách, đổi mới để đóng góp, đổi mới để tồn tại và để được viết. Mỗi nhà văn có một cách tạo nghĩa cho tinh thần “đổi mới”, mỗi nhà thơ cấp cho chữ đổi mới một nét nghĩa, một sắc thái ý nghĩa. Nguyên Ngọc đồng nhất sự đổi mới với sự tỉnh táo, sự trở lại chỗ đứng.

Tựu chung lại, những bàn luận đó cơ bản đều xoay quanh nhu cầu chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực; về con người; về nhà văn; về sứ mệnh, bản chất, chức năng của văn chương; về mối quan hệ với công chúng.


1.2.1 Quan niệm về nhà văn

Nhà văn ở mỗi thời kì đều xác định cho mình nhiệm vụ cụ thể. Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, hầu hết nhà văn là chiến sĩ. Lực lượng sáng tác đó dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên một nền văn học vận động và phát triển theo hướng cách mạng hóa, chứa đựng tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nhà văn ý thức được nhiệm vụ của mình là phải góp sức vào chiến thắng. Nguyễn Minh Châu khẳng định “chưa lúc nào bằng lúc này, thái độ của nhà văn trước vận mệnh chung của dân tộc lại đặt ra cấp bách và nghiêm khắc đến thế” [14, tr. 45]. Nhiệm vụ cách mạng khiến nhà văn, đôi khi, phải bỏ qua nhiều vấn đề, đôi khi phải lãng quên, né tránh sự thật. Do điều kiện chiến tranh mà hạn chế tất yếu của văn học giai đoạn này là: đôi khi ta quen nói một chiều, nói thắng lợi mà bỏ qua thất bại; có những lúc nói thành tích mà không đề cập đến tổn thất; phản ánh sự đúng đắn mà bỏ qua không nói sai lầm… tuy ai cũng biết rằng mỗi thắng lợi trong cuộc chiến tranh đều đã phải trả giá bằng biết bao tổn thất hy sinh, thất bại và cả những sai lầm cay đắng... Hàng loạt những vấn đề thuộc đời sống riêng tư, chuyện tình yêu, tình dục... trở thành những đề tài cấm kị. Nhà văn thời chống Mỹ đến với hiện thực cách mạng của dân tộc trong tâm thế người chép sử của thời đại mình, vừa nhằm cổ động cho các thế hệ đương thời, vừa xây dựng những mẫu mực cho hậu thế. Bởi vậy, trong một thời gian dài, nhà văn chỉ chú tâm phản ánh những cái tốt đẹp của đời sống, của con người. “Công việc của nhà văn phần nào giống công việc của các vị thánh, tức là sản xuất ra những con người cao thượng và những tình cảm cao thượng. Đấy là lí tưởng cao cả của người cầm bút" [65, tr. 54]

Bước ra từ cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, nhà văn như hoàn thành sứ mệnh của mình. Thời gian trở thành thuốc thử cho rất nhiều giá trị. Sự giãn cách đối với những gì đã xảy ra trong quá khứ khiến con người có thể nhìn nhận lại, đánh giá một cách chính xác hơn, khách quan hơn và công bằng hơn. Nhà văn phải nhìn vào sự thật, nói đúng sự thật. Sự thật sẽ trở thành một mục tiêu quan trọng trong đời sống văn học đương đại. Bảo Ninh cho rằng: “Có những người viết rất phóng túng, rất thật, và tôi thuộc loại nhà văn phải chiến đấu để loại trừ cái giả” [55]. Không

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 19/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí