Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Các Quy Định Của Việt Nam Về Thế Chấp Phần Vốn Góp Trong Công Ty

Thứ hai, đối với các tổ chức tín dụng, do các quy định về thế chấp quyền tài sản nói chung và phần vốn góp trong công ty nói riêng còn thiếu, nên hầu hết các tổ chức tín dụng đều e ngại khi nhận thế chấp loại tài sản này. Bên cạnh đó, việc xác định giá trị của phần vốn góp trong công ty này cũng là một vấn đề không đơn giản. Chỉ riêng phần vốn góp trong công ty là quyền sử dụng đất có giá quy định của Nhà nước hoặc giá thị trường cũng gặp không ít khó khăn khi xác định giá trị đối với loại tài sản khi tham gia vào hoạt động thế chấp này.

Thứ ba, không có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thế chấp quyền tài sản gây khó khăn cho công tác chứng thực nên các công chứng viên cũng rất lúng túng khi tiếp nhận và thực hiện yêu cầu công chứng hợp đồng thế chấp phần vốn góp, nhất là yêu cầu đối với giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng tài sản thế chấp (bao gồm những loại giấy tờ gì? do cơ quan có thẩm quyền nào cấp?

Thứ tư, pháp luật quy định điều kiện của hợp đồng thế chấp phần vốn góp có hiệu lực là phần vốn góp trong công ty phải thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp. Song, việc kiểm định tính "thật giả" của giấy tờ đăng ký quyền sở hữu phần vốn góp trong thế chấp còn có nhiều vướng mắc. Đồng thời, chưa có sự kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ từ phía các cơ quan có thẩm quyền đã tạo nên tình trạng làm giả giấy tờ để thế chấp, cầm cố…

Thứ năm, hoạt động xử lý tài sản thế chấp là phần vốn góp vẫn còn nhiều bất cập. Ví như trong hoạt động định giá phần vốn góp được thực hiện như một khâu độc lập với tất cả quá trình định giá khi ký kết hợp đồng thế chấp hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng thế chấp (nếu có). Tuy nhiên, trong quá trình định giá phần vốn góp có thể xảy ra tình trạng “thổi giá” để giá trị của phần vốn góp cao hơn giá trị thật.

Hoặc đối với hoạt động thu giữ phần vốn góp trong công ty khi xử lý tài sản cũng diễn ra khó khăn, phức tạp. Bên thế chấp luôn tìm mọi cách để có thể gây

trở ngại cho hoạt động này. Trong trường hợp không thể tự thu giữ được tài sản thế chấp, bên nhận thế chấp chỉ có thể gửi đơn đến Tòa án yêu cầu để cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thu giữ tài sản thế chấp trên cơ sở phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên, hoạt động này diễn ra rất mất thời gian bởi phải tuân theo một số quy định của pháp luật. Khảo sát khối tài chính của WB-IFC-VBA đối với 85% số ngân hàng được khảo sát, phải mất trên 3 tháng mới xin được phán quyết của Tòa án, còn 54% trường hợp thì thời gian này là trên 6 tháng]. Các thủ tục tư pháp hiện nay thường phức tạp và mất thời gian, bao gồm việc thụ lý đơn, ra quyết định và cuối cùng là thi hành án. Trên thực tế, việc giải quyết của Tòa án ở hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm có thể kéo dài đến 1 năm. Đồng thời, trong việc xử lý phần vốn góp của công ty trong động thế chấp. Về lý thuyết, để xác định giá trị phần vốn góp của người phải thi hành án không phải là việc phức tạp, vì nó được tính trên tỷ lệ vốn mà người đó đã góp vào vốn điều lệ của doanh nghiệp, thông thường có thể căn cứ vào các tài liệu như Giấy phép đăng ký kinh doanh, biên bản góp vốn và sổ sách kế toán của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, khi đã xác định được phần vốn góp của người phải thi hành án trong doanh nghiệp thì việc kê biên xử lý phần vốn góp đó như thế nào lại là một vấn đề rất khó khăn, phức tạp vì đây là một tài sản có tính chất pháp lý đặc biệt.[30] Phần vốn góp của người phải thi hành án là một phần trong vốn điều lệ của doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật thì việc tăng, giảm vốn điều lệ được quy định rất chặt chẽ và phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định.

Khi tiến hành kê biên phần vốn góp của người phải thi hành án trong doanh nghiệp thì chúng ta phải xử lý như thế nào để hạn chế tối đa thiệt hại cho doanh nghiệp và tránh những xung đột pháp luật giữa Pháp luật thi hành án dân sự và

Pháp luật kinh tế? Trong thực tiễn chúng ta có thể sẽ gặp nhiều trường hợp như thế, ví dụ:

Khi xử lý phần vốn góp đã bị kê biên chấp hành viên sẽ phải chọn biện pháp nào? Bán đấu giá, yêu cầu các thành viên còn lại của doanh nghiệp mua lại, hay biện pháp khác? Nếu là bán đấu giá phần vốn góp thì những ai được ưu tiên mua và nếu người mua không phải là thanh viên của doanh nghiệp thì thủ tục tiếp nhận thành viên mới này được thực hiện như thế nào?

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

- Việc xác định giá trị và xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án để cưỡng chế thi hành án dẫn đến tăng hoặc giảm vốn điều lệ của doanh nghiệp, thì chi phí thực hiện thủ tục đăng ký tăng, giảm vốn điều lệ này ai phải chịu?

Ngoài ra, ngay cả khi bên nhận thế chấp đã có phán quyết cuối cùng của Tòa án cấp phúc thẩm thì phán quyết đó vẫn có thể bị xem xét lại. Bên cạnh đó, khâu cưỡng chế thi hành án còn khó khăn gấp bội. Do vậy, cần có sự thay đổi một cách đồng đều nhằm giải quyết những vấn đề này.

Thế chấp phần vốn góp trong công ty theo pháp luật Việt Nam - 9

Thứ sáu, kênh cung cấp, hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp trong các giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng hoạt động còn yếu kém. Thông tin đối với doanh nghiệp luôn luôn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp. Việc hỗ trợ cung cấp thông tin, tư vấn nhằm đưa ra những thông tin có lợi cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tiến hành những thủ tục cần thiết trong hoạt động thế chấp là điều vô cùng cần thiết.

Thứ bảy, những tổ chức trung gian tại Việt Nam làm công tác tư vấn trong hoạt động thiết lập các giao dịch nói chung chưa mạnh, ở các quốc gia phát triển các tổ chức trung gian đóng vai trò là người tạo lập thị trường, tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, nơi cung cấp đầy đủ các dịch vụ và thông tin phục vụ hoạt động về giao dịch của doanh nghiệp nói chung và các giao dịch bảo đảm tài sản. Đối với Việt Nam, hiện nay có khá

nhiều các công ty chứng khoán, ngân hàng, tư vấn tài chính… tham gia hoạt động trung gian cho các bên trong hoạt động thế chấp nói riêng và giao dịch bảo đảm nói chung, tuy nhiên do có những hạn chế về hệ thống luật, nguồn nhân sự, trình độ công nghệ, cơ sở dữ liệu và thông tin mà những tổ chức này hoạt động rất kém chuyên nghiệp, chưa thể hiện được vai trò trung tâm trong việc thiết lập được mối quan hệ mật thiết giữa doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng nói chung.

Trong những khó khăn mà các tổ chức trung gian đang gánh phải thì thiếu nguồn nhân sự chuyên môn là yếu tố khó khăn hàng đầu. Những nhân viên tư vấn non nớt, chưa có nhiều về kinh nghiệm, vả lại tại Việt Nam chưa có một chương trình nào đào tạo hay cung cấp kiến thức bài bản cho lĩnh vực này, đa phần là tự phát hoặc những tổ chức này có yếu tố nước ngoài.

Thứ tám, việc thực hiện pháp luật về thế chấp nói chung và thế chấp phần vốn góp trong công ty nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Với nền tảng là BLDS, LDN đã đánh dấu cho việc hình thành khung pháp lý cơ bản về các giao dịch tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, việc hình thành một khung pháp lý thống nhất, cơ bản về thế chấp phần vốn góp chưa được thống nhất vì còn nằm rải rác ở các văn bản luật khác nhau, chưa mang tính chất đồng bộ, rõ ràng. Đồng thời, về cơ bản, hầu hết các quy định này dừng lại ở các quy định “khung”, điều chỉnh những vấn đề thuộc về nguyên tắc mà chưa đi sâu vào những nội dung chi tiết. Điều này có thể gây ra những tác động ảnh hưởng đến các các chủ thể có liên quan.[28]

Nhìn chung, thực trạng áp dụng pháp luật về thế chấp phần vốn góp trong công ty tại Việt Nam tuy rằng đã đạt nhiều kết quả đáng khen ngợi song vẫn còn nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng.

2.3.3. Nguyên nhân

Các hạn chế kể trên đã mang lại rất nhiều những khó khăn trong việc thực thi các quy định và hoạt động về thế chấp phần vốn góp trong công ty mà bắt nguồn từ các nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân chủ quan trong đời sống kinh tế xã hội.

Nguyên nhân khách quan

Dưới tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên thế chấp phần vốn góp trong công ty đã có nhiều thay đổi nhằm phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, với những hạn chế trong hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty đã gây khó khăn đến hoạt động này ở nước ta trong thời gian trở lại đây. Trong sân chơi thế giới, bên cạnh những quốc gia có tiềm lực với một hệ thống pháp lý vững chắc thì việc các công ty lợi dụng những “kẽ hở” của hệ thống pháp luật Việt Nam để gây bất lợi là điều vô cùng đáng ngại.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp lý trong nước chưa có một thiết chế nhằm kiểm tra, giám sát các hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty. Điều đó đã vô tình khiến cho các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước có liên quan áp dụng những quy định gây tranh cãi trong thế chấp phần vốn góp trong công ty.

Môi trường kinh doanh không ổn định ở nước ta trong những năm vừa qua, những biến động của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới đã và đang gây ra những trở ngại và khó khăn cho các bên khi sử dụng phần vốn góp trong công ty làm đối tượng của hợp đồng thế chấp tài sản.

Nguyên nhân chủ quan

Xuất phát những hạn chế trong quy định về pháp luật hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty là do pháp luật về thế chấp phần vốn góp của Việt Nam khi xây dựng trong bối cảnh chúng ta chưa có kinh nghiệm trong việc xây

dựng và áp dụng trong các giao dịch có liên quan đến tài sản đảm bảo nói chung và thế chấp phần vốn góp trong công ty nói riêng, việc tiếp thu pháp luật thế giới vào pháp luật nội địa chưa được chuẩn bị kỹ về mọi mặt. Đồng thời, cùng như cấu trúc hệ thống văn bản pháp luật trong pháp luật nước ta có những khác biệt so với pháp luật thế giới và các nước. Kỹ năng lập pháp của Việt Nam chưa được hoàn thiện đã làm cho việc xây dựng những quy định về thế chấp phần vốn góp trong công ty còn gặp nhiều hạn chế.

Đối với phía Cơ quan có thẩm quyền chưa thực hiện việc kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ công tác sử dụng phần vốn góp làm tài sản thế chấp sai quy định dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Công tác quản lý chưa thật sự hiệu quả, những trường hợp chưa tìm hiểu được rõ tình hình khi tham gia vào hợp đồng thế chấp tài sản là phần vốn góp có thể dẫn tranh chấp trong hợp đồng thế chấp giữa các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng.

Vấn đề chính của các doanh nghiệp Việt Nam đó là thiếu kinh nghiệm, thông tin trong việc tìm hiểu rõ những quy định của pháp luật về các giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng. Các doanh nghiệp nước ta chưa chủ động sử dụng các công cụ chính sách hợp lệ được pháp luật cho phép để bảo vệ doanh nghiệp mình trong thời gian qua. Sự thiếu am hiểu về pháp luật về thế chấp của thị trường trong nước và thế giới đã dẫn đến việc bị thiệt hại khi tham gia sân chơi kinh tế, quốc tế.

Sự liên kết giữa các doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích doanh nghiệp còn lỏng lẻo. Các cơ quan có thẩm quyền hiện nay chỉ chưa phát huy hết chức năng, nhiệm vụ trong công tác về tư vấn thủ tục, quyền lợi cho doanh nghiệp trong các giao dịch bảo đảm nói chung. Đồng thời, trong hoạt động quản lý nguồn vốn góp Nhà nước trong các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thế chấp chưa đạt hiệu quả cao. Điều này dẫn đến việc

không thể xác lập được vai trò – trách nhiệm cũng như sự phối hợp giữa các bên có liên quan dẫn đến việc không thể bảo vệ quyền và lợi ích cho doanh nghiệp trong quá trình diễn ra hoạt động của các giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp phần vốn góp trong công ty nói riêng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG II

Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thế chấp phần vốn góp trong doanh nghiệp bước đầu đã phù hợp với những thay đổi và nhu cầu của thực tiễn và tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp xác lập các quan hệ thế chấp phần vốn góp một cách an toàn và hiệu quả. Tài sản thế chấp được áp dụng đối với cả quyền tài sản là phần vốn góp đã thể hiện sự đáp ứng nhanh nhạy và kịp thời của pháp luật đối với nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành cũng bộc lộ nhiều bất cập khi chúng được vận dụng trong thực tiễn. Đồng thời, những quy định về xử lý tài sản thế chấp là phần vốn góp của doanh nghiệp của hệ thống pháp luật hiện hành còn bộc lộ nhiều yếu điểm cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn vấn đề về thế chấp phần vốn góp trong doanh nghiệp.

Tất cả những bất cập được phân tích, bình luận và lý giải nêu trên nhằm tạo căn cứ cho những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thế chấp phần vốn góp trong công ty sẽ được đề cập ở chương 3 của luận văn.


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản là phần vốn góp và hoạt động xử lý tài sản

3.1.1. Các yêu cầu cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo định hướng của Đảng và nhà nước

Sự thành công của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Với quan điểm, đường lối chỉ đạo gắn liền với sự đổi mới trong hoạt động kinh tế đã tác động to lớn đến toàn bộ hệ thống các quy định pháp luật. Trong đó, các giao dịch đảm bảo như thế chấp phần vốn góp trong công ty đang tăng lên từng ngày.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 20-1-2016 đến ngày 28-1-2016, tại Thủ đô Hà Nội. Sau khi thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình, đại hội đề đề ra các nội dung như sau:

“Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 - 2020

Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/11/2023