III. DANH MỤC HỘP
1. Hộp 2.1: Các bước cơ bản trong quy trình cấp tín dụng (cho vay) 82
2. Hộp 2.2: Các biện pháp hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng SHB 84
3. Hộp 2.3: Gói sản phẩm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Vietinbank 84
4. Hộp 2.4: NHTMCP Đông Á 103
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn - 1
- Luận Cứ Khoa Học Về Tăng Trưởng Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Trong Điều Kiện Kinh Tế Vĩ Mô Bất Ổn
- Vai Trò Của Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Đối Với Nền Kinh Tế
- Một Số Chỉ Tiêu Kinh Tế Vĩ Mô Của Argentina 1996 – 2002
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ trên thế giới, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) luôn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Trong thời gian qua, các DNNVV Việt Nam đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân với đặc thù năng động, linh hoạt và thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. Phân khúc doanh nghiệp này đã có sự phát triển mạnh mẽ, chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp cả nước, là động lực quan trọng trong tạo việc làm, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở địa phương cũng như hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của các thành phần kinh tế khác.
Đối với sự phát triển của các DNNVV, vai trò to lớn của nguồn tín dụng ngân hàng là không thể phủ nhận, nhất là khi đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế dựa vào tín dụng (bank-based market). Nhận thức được điều này và tiềm năng của phân khúc DNNVV, các NHTM ngày càng chú trọng đến việc tăng trưởng tín dụng dành cho đối tượng này, Tuy nhiên, do đặc trưng về quy mô và hoạt động sản xuất kinh doanh, các DNNVV vẫn thường xuyên vấp phải khó khăn trong quá trình tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. Bên cạnh đó, từ năm 2008, bắt nguồn từ những bất ổn của tình hình kinh tế thế giới nói chung cũng như những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam nói riêng, môi trường kinh doanh của các DNNVV Việt Nam đã phải gánh chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Lạm phát cùng với lãi suất tăng cao, sức cầu giảm sút đã khiến một số lượng lớn các DNNVV Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn, phải thu hẹp sản xuất, thậm chí là ngừng hoạt động, phá sản. Theo vòng xoáy đó, DNNVV lại càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng nhằm khôi phục hoạt động sản xuất bị tổn thương do tác động tiêu cực của nền kinh tế bất ổn. Do sở hữu vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, việc hỗ trợ cho DNNVV hoạt động tốt trở lại có ý nghĩa to lớn nhằm thúc đẩy kinh tế phục hồi quay lại quỹ đạo tăng trưởng ổn định. Trong số những chính sách hỗ trợ cho DNNVV, chính sách về tín dụng có vai trò rất quan trọng do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế dựa vào tín dụng. Do đó, việc mở rộng tín dụng đối với DNNVV trong bối cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với NHTM nói riêng. Đồng thời, việc nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới cũng khiến DNNVV
và các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng sẽ phải đối mặt với các thách thức để thích nghi bên cạnh những thời cơ và thuận lợi dưới một luật chơi chung.
Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài“Tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn” làm luận án tiến sỹ của mình nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu thực tiễn khách quan về thúc đẩy tín dụng ngân hàng cho đối tượng DNNVV. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp về phát triển tín dụng ngân hàng cho DNNVV, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của phân khúc doanh nghiệp này tại Việt Nam trước những khó khăn của môi trường kinh doanh hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Đối với tính hình nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tín dụng của ngân hàng đối với hệ thống DNNVV trên nhiều khía cạnh khác nhau về các sản phẩm tín dụng, loại hình tín dụng, hiệu quả của tín dụng ngân hàng, mức độ phụ thuộc của DNNVV vào tín dụng ngân hàng… trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
Tác giả Santiago (2008) [73] đã thực hiện nghiên cứu về tín dụng ngân hàng, những khó khăn trong tiếp cận tài chính, và hoạt động đầu tư của 30,897 DNNVV tại Tây Ban Nha. Trong giai đoạn từ năm 1994 đến 2008, tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại là nguồn vốn chính đối với các DNNVV tại Tây Ban Nha. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng sẽ phải quay sang tận dụng tín dụng thương mại để thực hiện các cơ hội đầu tư, các doanh nghiệp loại này chiếm tới 1/3 số lượng doanh nghiệp tại Tây Ban Nha. Ngược lại, các doanh nghiệp khác có thể tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng dễ dàng hơn, và hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khi nền kinh tế gặp phải các cú sốc từ phía chính sách tiền tệ và các cú sốc đặc trưng của bản thân doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu về rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV tại Romania, tác giả Brindusa [41] đã chỉ ra hệ thống ngân hàng nhận định hệ thống DNNVV là nhóm khách hàng tiềm năng. Do vậy, hệ thống ngân hàng đã triển khai việc thiết kế các sản phẩm tín dụng đặc biệt, phù hợp với nhu cầu tài chính của khu vực này. Ngoài ra, hệ thống DNNVV còn được hưởng lợi từ sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng thông qua những sản phẩm và dịch vụ với chi phí thấp hơn so với các nguồn vốn khác. Tác giả đã phân tích những rủi ro trong cho vay các DNNVV, những sản
phẩm tín dụng cho DNNVV, các rủi ro đi kèm và chính sách quản trị rủi ro được thực thi tại thời điểm nghiên cứu và trong tương lai.
Trước thực trạng các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, gặp phải khó khăn trước tình trạng kiệt quệ tín dụng trong thời kỳ khủng hoảng, Santiago và các cộng sự (2013) [74] đã nghiên cứu liệu tín dụng thương mại có trở thành nguồn vốn thay thể hiệu quả cho nguồn vốn vay ngân hàng hay không. Sử dụng dữ liệu từ các DNNVV tại Tây Ban Nha, nhóm tác giả đã đưa ra kết luận nhóm DNNVV khó tiếp cận vốn vay ngân hàng đã tăng mức độ phụ thuộc vào tín dụng thương mại trong bối cảnh khủng hoảng tài chính. Tín dụng thương mại tồn tại với chức năng là người cho vay cuối cùng đối với các doanh nghiệp này. Trái lại, các DNNVV có tình hình tài chính tốt, tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng, vẫn huy động nguồn vốn chủ yếu từ hệ thống ngân hàng.
Quan tâm tới cấu trúc tài chính và kết quả hoạt động của các DNNVV so với các doanh nghiệp lớn, nhóm tác giả Dorothée và các cộng sự (1998) [49] đã tiến hành so sánh những đặc điểm khác biệt giữa hai nhóm doanh nghiệp này. Trên cơ sở lý thuyết và nghiên cứu các doanh nghiệp tại chín quốc gia phát triển trong giai đoạn từ năm 1990 tới 1996, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra các DNNVV tại Áo, Đức, Bồ Đào Nha, và Nhật có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao, và ngược lại tại Tây Ban Nha và Mỹ. Tại hầu hết các quốc gia, tầm quan trọng của khoản vay ngắn hạn là lớn hơn đối với các DNNVV hơn là các doanh nghiệp lớn, một đặc điểm phù hợp với đặc điểm là các doanh nghiệp này có nhu cầu vốn lưu động cao hơn. Tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ giữa hiệu quả sinh lời và cấu trúc tài chính, nhóm nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ rõ ràng giữa tình trạng nợ với lợi nhuận của DNNVV. Kết luận cho thấy các DNNVV và ngân hàng cần phải xây dựng một mối quan hệ tốt trong đó ngân hàng là chủ thể chính cung cấp vốn ngắn hạn cho hệ thống ngân hàng thông qua một số biện pháp như tăng cường thông tin của DNNVV, phát triển vai trò của bảo lãnh tín dụng…
Một nghiên cứu khác về khả năng tiếp cận tín dụng của DNNVV tại Nam Phi được thực hiện bởi Hội đồng chính sách về quản lý và dịch vụ tài chính đã phân tích vai trò của ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho hệ thống DNNVV, khả năng tiếp cận nguồn vốn và chi phí vốn… Kết quả nghiên cứu cho thấy các ngân hàng không tập trung vào việc thiết kế các sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu của DNNVV xuất phát từ mức độ rủi ro tín dụng của nhóm khách hàng này là cao hơn so với mức bình quân. Do vậy, các DNNVV tại các quốc gia đang phát triển thường
gặp phải những khó khăn nhật định trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, và phải phụ thuộc vào những nguồn tài chính phi ngân hàng khác.
Tác giả Yibin Mu (2002) đã nghiên cứu về những trở ngại đối với DNNVV trong việc tiếp cận tài chính và bảo lãnh tín dụng tại Trung Quốc. Hai thập kỷ trước 80s và 90s của thế kỷ trước đã chứng kiến sự phát triển đáng kể của hệ thống DNNVV Trung Quốc trên cơ sở lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp lớn về sự linh hoạt trong hoạt động kinh doanh và quản lý. Tuy nhiên, quá trình cải cách doanh nghiệp đã khiến các doanh nghiệp lớn trở nên hoạt động hiệu quả và mang tính thị trường hơn, dần dần cải thiện vị thế cạnh tranh của mình so với DNNVV. Tác giả đã tổng hợp và phân tích những khó khăn đối với DNNVV trong bối cảnh đó, đặc biệt là đối với việc tiếp cận nguồn tài chính. Các giải pháp hỗ trợ hệ thống DNNVV đã thực hiện được đề cập đến như Chính phủ Trung Quốc thực hiện chương trình bảo lãnh tín dụng thông qua việc cho phép thành lập và đi vào hoạt động của cơ quan bảo lãnh tín dụng tài trợ bởi Chính phủ, quỹ bảo lãnh tín dụng của các DNNVV, và quỹ bảo lãnh tín dụng do tư nhân làm chủ. Tác giả đã chỉ ra quỹ bảo lãnh tín dụng do tư nhân làm chủ, dưới sự hỗ trợ của Chính phủ, là công cụ quan trọng hỗ trợ DNNVV tiếp cận tín dụng khi mà các DNNVV gặp hạn chế trong việc đáp ứng điều kiện về tài sản bảo đảm, kiểm soát lãi suất, và giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra những quan ngại về vai trò của quỹ bảo lãnh tín dụng do tư nhân làm chủ.
2.2. Đối với tính hình nghiên cứu trong nước
Tình hình hoạt động của các DNNVV Việt Nam nói chung và nguồn vốn tín dụng dành cho đối tượng này trong điều kiện kinh tế vĩ mô tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn như hiện nay là đề tài dành được nhiều sự quan tâm trong các công trình nghiên cứu và bài báo khoa học thời gian gần đây. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng như bài báo trên mới dừng ở mức độ phân tích trên phạm vi hẹp hoặc theo một khía cạnh nhất định của hoạt động doanh nghiệp, trong đó chưa có nhiều nghiên cứu tập trung vào đầy đủ các nội dung liên quan đến vấn đề phát triển tín dụng cho các đối tượng DNNVV. Trong phần này, tác giả sẽ hệ thống lại những kết quả nghiên cứu tiêu biểu về tăng trưởng tín dụng cho DNNVV cũng như các nội dung liên quan như thực trạng, ảnh hưởng và giải pháp cho vấn đề tăng trưởng tín dụng cho DNNVV từ các nghiên cứu trong nước trong giai đoạn nền kinh tế tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn như hiện nay.
Trước hết về mặt lý luận, các nghiên cứu hầu hết đều đã tập trung khái quát các vấn đề cơ sở về DNNVV và vai trò trong hoạt động kinh tế. Ở Việt Nam, DNNVV được xác định theo Điều 3, Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009. Trong đó, DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (trong đó tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Xét theo góc độ tiếp cận dịch vụ tài chính, Ngân hàng Thế giới đưa thêm tiêu chí về quy mô vay trung bình để xác định các DNNVV.
Nguồn tài chính ổn định và dồi dào góp phần giúp các DNNVV hoạt động hiệu quả cũng là một khía cạnh được nhiều nghiên cứu tập trung phân tích. Chẳng hạn, trong nghiên cứu “Cẩm nang kiến thức dịch vụ ngân hàng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ” [7] của công ty tài chính quốc tế IFC cho thấy, DNNVV là các công ty có nhu cầu tài chính quá lớn đối với mô hình tài chính vi mô, nhưng lại quá nhỏ để tận dụng hiệu quả các mô hình dịch vụ ngân hàng dành cho công ty. Các DNNVV là một khu vực kinh tế có qui mô lớn và đóng vai trò quan trọng về mặt kinh tế tại hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới. Khu vực kinh tế DNNVV đang phát triển thường được coi là dấu hiệu cho thấy toàn bộ nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù trước đây các ngân hàng từng chú trọng tới các khách hàng doanh nghiệp có mức rủi ro thấp và mang lại giá trị cao, ngày càng có nhiều người đồng ý rằng thị trường DNNVV có thể là một phân khúc thị trường mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Đồng thời, không chỉ có các ngân hàng có qui mô nhỏ mới phục vụ thành công thị trường DNNVV, nhiều ngân hàng lớn cũng đã chuyển hướng để phục vụ thị trường DNNVV và hiện đang đóng vai trò chủ chốt trong các thị trường của họ.
Trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều biến động. Bối cảnh nền kinh tế vĩ mô nhiều bất ổn đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của các DNNVV trong nền kinh tế. Trong 4 tháng đầu năm 2012, có trên 17.700 doanh nghiệp làm các thủ tục giải thể và ngừng hoạt động, tăng 9,5% so với cùng kỳ (Phước Hà, 2012) [18]. Riêng quí 1 năm 2012, theo công bố của Văn phòng Chính phủ tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 1/4/2012, số doanh nghiệp mới thành lập trên 15.300 doanh nghiệp, trong đó, có 2.200 doanh nghiệp làm thủ tục giải thể và trên 9.700 doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động có thời hạn hoặc dừng thực hiện nghĩa vụ thuế, trong đó đa số là các DNNVV.
Đặc biệt, bất ổn vĩ mô đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp nói chung và đối tượng DNNVV nói riêng. Trong giai đoạn suy thoái kinh tế hiện nay, nền kinh tế lạm phát cao, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, nổi bật là quy định hạn chế tăng trưởng tín dụng đối với các NHTM; vì vậy, các NHTM cũng đã hạn chế cho vay, khiến cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân từ trước vốn đã rất khó tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng, nay càng khó khăn hơn (Nguyễn Thị Minh Huệ và Tăng Thị Thanh Phúc, 2012) [23]. Không ít doanh nghiệp cho biết thủ tục vay vốn tại các ngân hàng đang quá sức đối với họ ngay cả khi có chính sách ưu đãi của Chính phủ (Tổng cục thống kê, 2012). Thạc sĩ Nguyễn Bích Ngọc (Viện Chiến lược và Chính sách tài chính) cho biết ngoài các lý do khiến các DNNVV không được hưởng các hỗ trợ tài chính tín dụng (do không có tài sản bảo đảm, không có phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, hồ sơ vay vốn không hợp lệ...) thì có tới 48% số DNNVV bị ngân hàng từ chối cho vay vốn mà không rõ lý do. Theo Báo cáo về tình hình doanh nghiệp và kiến nghị (khảo sát từ ngày 1-4-2012 đến 20-4-2012) có khoảng 50% doanh nghiệp đang vay vốn với mức lãi suất trên 18%, trong khi mức lãi suất vay mà đa số họ (khoảng 75% số doanh nghiệp) có thể chịu đựng được là 15% và mức lãi suất vay mà họ cho là hợp lý là khoảng 13%-14% (VCCI, 2012) [28].
Nền kinh tế phục hồi chắc chắn sẽ đòi hỏi một hệ thống DNNVV hoạt động hiệu quả, vì vậy cải thiện dịch vụ tín dụng cho đối tượng này là một yêu cầu cấp thiết. Trong nghiên cứu “Giải pháp nào cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân ở Việt Nam trong thời kỳ suy thoái kinh tế - góc nhìn từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng”, hai tác giả Nguyễn Thị Minh Huệ và Tăng Thị Thanh Phúc [23] đã đề xuất một số các giải pháp đến từ nhiều bên liên quan bao gồm ngân hàng, doanh nghiệp và chính phủ:
Đối với ngân hàng, các TCTD cần đa dạng hoá các hình thức tiếp xúc (tiếp xúc trực tiếp, tiếp xúc gián tiếp và tiếp xúc qua trung gian) nhằm tăng khả năng khai thác thông tin của các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Trong các hình thức này, tiếp xúc trực tiếp đóng vai trò quan trọng nhất trong việc ảnh hưởng đến các quyết định cho vay. Ngoài ra, cần chú trọng thực hiện chính sách hỗ trợ khách hàng của ngân hàng sau cho vay, điều này vừa giúp cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt các doanh nghiệp còn yếu kém trong khâu quản trị tài chính, khai thác thị trường đồng thời giúp khả năng bảo toàn được vốn kinh doanh của ngân hàng rất lớn.
Về phía doanh nghiệp, vấn đề trước hết là việc tuân thủ nghiêm túc chế độ lập tài chính vừa giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được thông tin vừa lấy lại uy
tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng. Ngoài ra, để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp, cần chú trọng các liên kết kinh tế, tận dụng lợi thế từ liên kết trong kinh doanh, đồng thời cũng cần tạo cơ chế chính sách sáp nhập, mua bán doanh nghiệp một cách thuận lợi.
Về phía Nhà nước, hiện nay, để hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhà nước đã ban hành Quy chế bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các ngân hàng thương mại, nhưng đối tượng vay vốn cũng chỉ hạn hẹp đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa (Quyết định 03/2011/QĐ-TTg) [21]. Nên chăng, cũng cần mở rộng đối với cả các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ để dần hỗ trợ và phát triển thành các loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn hơn.
Trên một cách tiếp cận khác, Báo cáo về tình hình doanh nghiệp và kiến nghị của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI, 2012) [28] đã đề xuất một loạt các giải pháp trong đó các giải pháp tập trung vào tiền tệ và tín dụng cho DNNVV. Cụ thể, báo cáo khuyến nghị:
(1) Tiếp tục lộ trình giảm lãi suất một cách tích cực để giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp, đây là cơ sở để NHNN tiếp tục giảm lãi suất trong khi vẫn bảo đảm cho người gửi tiền có lãi suất thực dương và lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.
(2) Mở rộng nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các NHTM Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh trong các ngành nghề và lĩnh vực trọng điểm.
(3) Triển khai mô hình cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp cực nhỏ (dưới 10 lao động) có kế hoạch kinh doanh khả thi và có các tiêu chí định mức tín nhiệm tin cậy với sự hợp tác của các hiệp hội. Mở rộng hình thức cho vay thế chấp bằng sản phẩm của các doanh nghiệp.
(4) Rà xét, đánh giá để có biện pháp mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV của Ngân hàng phát triển Việt Nam và của các quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương.
Tóm lại, qua những phân tích trên đây chúng ta có thể thấy được những nghiên cứu trong nước chưa xuất hiện một nghiên cứu tổng thể có tính chất bao quát về thực trạng nguồn vốn tín dụng dành cho đối tượng DNNVV trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn. Điều này đòi hỏi có những nghiên cứu mang tính hệ thống hóa cao và tập trung chuyên sâu vào các vấn đề liên quan đến tín dụng dành cho DNNVV trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đi từ thực trạng, ảnh