3.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm
Xúc cảm là cơ sở của tình cảm. Tình cảm được hình thành từ xúc cảm, do những xúc cảm cùng loại tổng hợp hoá, động hình hoá và khái quát hoá mà thành.
Tình cảm được hình thành từ xúc cảm, nhưng khi đã được hình thành thì tình cảm lại thể hiện qua các xúc cảm đa dạng và chi phối các xúc cảm.
Như vậy, muốn tạo được tình cảm tốt đẹp của khách dành cho cơ sở, phải phục vụ tốt tất cả các khâu, trong đó đặc biệt chú ý đến khâu đầu tiên (ấn tượng ban đầu) và những khâu quan trọng.
Các quy luật nói trên được thể hiện phong phú và đa dạng trong cuộc sống của con người và trong hoạt động du lịch.
4. Vai trò của đời sống tình cảm trong cuộc sống và trong du lịch
Trong tâm lí học người ta xem tình cảm là mặt tập trung nhất, đậm nét nhất của nhân cách con người.
Với nhận thức, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi chân lý, ngược lại nhận thức là cơ sở, là cái “lý” của tình cảm, lý chỉ đạo tình, lý và tình là hai mặt của một vấn đề nhân sinh quan thống nhất của con người.
Với hành động, tình cảm nảy sinh và biểu hiện trong hoạt động, đồng thời tình cảm là một trong những động lực thúc đẩy con người hoạt động.
Tình cảm có quan hệ và chi phối toàn bộ thuộc tính của nhân cách: trước hết tình cảm chi phối tất cả các biểu hiện của xu hướng nhân cách (nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, niềm tin) tình cảm là mặt nhân lõi của tính cách, là điều kiện là động lực để hình thành năng lực, là yếu tố có quan hệ qua lại với khí chất con người.
Trong hoạt động du lịch tình cảm có một ý nghĩa không kém phần quan trọng. Do đặc điểm sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ, mà việc đánh giá chất lượng dịch vụ có nhiều cách và thường dựa trên “mức độ thoả mãn của khách”, yếu tố này chủ yếu phụ thuộc vào tâm lí, tình cảm của khách. Tạo cho khách những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp sẽ làm cho khách dễ thoả mãn và hài lòng hơn, “yêu nhau thì củ ấu cũng tròn mà bồ hòn cũng ngọt”, “râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” (tục ngữ Việt Nam cũng đã nói lên vai trò của tình cảm trong cuộc sống).
5. Hành động tự động hóa: kỹ xảo và thói quen
Ngoài hành động bản năng và hành động ý chí, ở con người còn có hành động tự động hoá. Hành động tự động hoá có thể là một quá trình tâm lí (kỹ xảo) cũng có thể là một thuộc tính tâm lí (thói quen), đây là một nội dung có liên quan đến quá trình phục vụ du lịch do đó chúng ta cũng cần tìm hiểu nội dung này.
5.1. Hành động tự động hoá là gì?
Hành động tự động hoá vốn là hành động có ý thức, nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần, hoặc do luyện tập mà nó trở thành tự động hoá, không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức mà thực hiện có kết quả.
Có hai loại hành động tự động hoá: kĩ xảo và thói quen.
Kĩ xảo là loại hành động tự động hoá nhờ luyện tập, còn thói quen là hành động tự động hoá ổn định trở thành nhu cầu của con người.
Kĩ xảo và thói quen có những điểm khác nhau:
Thói quen  | |
- Mang tính chất kỹ thuật.  | - Mang tính chất nhu cầu, nếp sống.  | 
- Được đánh giá về mặt thao tác.  | - Được đánh giá về mặt đạo đức.  | 
- ít gắn với tình huống.  | - Luôn gắn với tình huống cụ thể.  | 
- Có thể ít bền vững nếu không thường xuyên luyện tập, củng cố.  | - Bền vững, ăn sâu vào nếp sống.  | 
Có thể bạn quan tâm!
-  
 Tâm lý khách du lịch - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh - 1 -  
 Tâm lý khách du lịch - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh - 2 -  
 Ảnh Hưởng Của Các Hiện Tượng Tâm Lí Xã Hội Phổ Biến Trong Du Lịch -  
 Các Loại Sở Thích Của Khách (Dựa Trên Động Cơ Đi Du Lịch) -  
 Các Yếu Tố Ảnh Hướng Đến Cảm Xúc, Tâm Trạng Của Khách 
Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.

- Hình thành bằng nhiều con đường như rèn luyện, bắt chước.  | 
- Con đường hình thành chủ yếu của kĩ xảo là luyện tập có mục đích và hệ thống.
5.2. Quy luật hình thành kĩ xảo
- Quy luật tiến bộ không đồng đều:
Trong quá trình luyện tập kĩ xảo có sự tiến bộ không đồng đều:
+ Có loại kĩ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ nhanh, sau đó chậm dần
+ Có những loại kĩ xảo khi mới bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ chậm, nhưng đến một giai đoạn nhất định thì nó lại tăng nhanh.
+ Có những trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi lại, sau đó tăng dần.
Nắm được quy luật trên, khi hình thành kĩ xảo cần bình tĩnh, kiên trì, không nóng vội, không chủ quan để luyện tập có kết quả.
- Quy luật “đỉnh” của phương pháp luyện tập:
Mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất đối với nó, gọi là “đỉnh” (trần) của phương pháp đó. Muốn đạt kết quả cao hơn phải thay đổi phương pháp luyện tập để có “đỉnh” cao hơn.
- Quy luật về sự tác động qua lại giữa kĩ xảo cũ và kỹ xảo mới:
Sự tác động qua lại này diễn ra theo hai chiều hướng sau:
+ Kĩ xảo cũ có ảnh hưởng tốt, có lợi cho việc hình thành kĩ xảo mới, đó là sự chuyển (hay còn gọi là “cộng”) kĩ xảo.
+ Kĩ xảo cũ ảnh hưởng xấu, gây trở ngại khó khăn cho việc hình thành kĩ xảo mới, đó là hiện tượng “giao thoa” kĩ xảo.
- Quy luật dập tắt kĩ xảo:
Một kĩ xảo đã được hình thành nếu không luyện tập, củng cố và sử dụng thường xuyên có thể bị suy yếu và cuối cùng bị mất đi (bị dập tắt). Vì thế trong việc hình thành và giữ gìn kĩ xảo đã có, cần chú ý ôn tập và củng cố thường xuyên, kiên trì và có hệ thống.
Có qui luật nói trên cần được quan tâm trong quá trình luyện tập hình thành kĩ xảo ở mỗi con người.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 2
1. So sánh các đặc điểm của cảm giác và tri giác.
2. Các loại cảm giác, các quy luật của cảm giác và ý nghĩa của chúng đối với đời sống và hoạt động du lịch?
3. Các loại tri giác, các quy luật của tri giác và ý nghĩa của chúng đối với đời sống và hoạt động du lịch?
4. Nhân cách là gì? Các đặc điểm của nhân cách? Cấu trúc nhân cách?
5. Các kiểu người theo khí chất, với khách du lịch được phân theo các kiểu khí chất này họ thường có những biểu hiện như thế nào?
6. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách.
7. Các mức độ của đời sống tình cảm? Cho ví dụ.
8. Các quy luật của đời sống tình cảm? Cho ví dụ. Có thể vận dụng các quy luật này vào hoạt động du lịch như thế nào?
9. Hành động tự động hoá là gì? hành động tự động hoá có ý nghĩa như thế nào trong việc hình thành năng lực của người lao động trong du lịch?
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÂM LÍ DU LỊCH VÀ TÂM LÍ XÃ HỘI
Mục tiêu:
- Trình bày được và phân biệt được Tâm lý khách du lịch và tâm lý xã hội.
- Thực hiện được các quy luật tâm lý trong hoạt động du lịch.
- Phân tích, đánh giá được tầm quan trọng của ảnh hưởng các hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến trong du lịch.
- Rèn luyện được ý thức nghiêm túc trong học tập
Nội dung chương:
1. Khái quát về tâm lí du lịch và tâm lí xã hội
1.1. Khái niệm về tâm lí xã hội
Tâm lí học xã hội là một khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lí chung của nhiều người trong những nhóm xã hội nhất định. Đó là một khoa học cụ thể của tâm lí học, chuyên nghiên cứu về tính quy luật của sự phát sinh, phát triển, biểu hiện và vận hành của cái tâm lí xã hội (các hiện tượng tâm lí xã hội). (theo Nguyễn Đình Chỉnh, Phạm Ngọc Uyển- Tâm lí học xã hội- NXB Giáo dục Hà Nội, 2001)
Nói một cách khác, tâm lí học xã hội là khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lí xã hội của con người. Trong đó, các hiện tượng tâm lí xã hội là những hiện tượng tâm lí chung của nhiều người trong những nhóm xã hội nhất định, chúng được phát sinh, phát triển và biểu hiện trong hoạt động xã hội và giao tiếp xã hội.
1.1.1. Tâm lí học xã hội là gì?
Tâm lý học xã hội là ngành khoa học cơ bản hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19, chuyên nghiên cứu tác động của hoạt động xã hội và quá trình nhận thức lên suy nghĩ của mỗi cá nhân, cũng như ảnh hưởng và mối quan hệ của cá nhân đó với những người khác. Tâm điểm quan tâm của ngành tâm lý học xã hội là người ta làm thể nào để hiểu và tương tác với những người khác.
Một số quan điểm coi ngành tâm lý học xã hội bắt đầu hình thành sau tác động của công trình nghiên cứu "Tâm lý đám đông" được Gustave le Bon giới thiệu năm 1895, và ngành này bắt đầu rõ nét từ cuối thập niên 1930 nhờ phương pháp thực nghiệm do Kurt Levin khởi xướng. Tuy nhiên, có những giáo trình ghi nhận công trình nghiên cứu của nhà khoa học Mỹ Norman Triplett vào năm 1898 là viên gạch đầu tiên cho ngành này. Dù sao cũng cần nhắc tới đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu như kỹ sư nông nghiệp người Pháp Max Ringelmann trong thập niên 1880 phát hiện thấy khi cùng chung sức kéo dây hoặc đẩy xe người ta có xu hướng ít nỗ lực hơn lúc làm một mình.
Hai quyển sách giáo khoa chính thức mang tên ngành tâm lý học xã hội cùng được xuất bản năm 1908 thuộc về hai tác giả là nhà tâm lý học William McDougall và nhà xã hội học E.A. Ross. Công trình thứ hai mang nội dung mà sau này trở thành mối quan tâm hàng đầu của ngành: rằng con người ta chịu ảnh hưởng mạnh từ những người khác, bất kể là những người đó có thực sự có mặt hay không. Từ đó xuất hiện khái niệm "xây dựng thực tại" (construction of reality), mà theo đó quan điểm của mỗi cá nhân về thực tại là một kết cấu được tạo thành qua hai quá trình: nhận thức (cơ chế hoạt động của tư duy) và tương tác xã hội (ảnh hưởng từ những người khác, có thể là người thực hoặc trừu tượng).
Một trong số những đóng góp lớn của ngành tâm lý học xã hội đối với khoa học đương đại (sau hậu hiện đại) là khái niệm bản sắc tập thể, giúp hiểu được nhìn nhận của mỗi cá nhân về vị trí của mình trong quần thể xã hội đang sống và các tương tác của cá nhân đó trong xã hội, tức là góc nhìn đương đại của phương pháp cá nhân luận.
1.1.2. Đối tượng của tâm lí học xã hội
Đối tượng của tâm lí học xã hội bao gồm:
- Các hiện tượng tâm lí xã hội. Cụ thể hơn nó nghiên cứu:
+ Cái chung, cái bản chất trong tâm lí của nhiều người là gì?
+ Những đặc trưng tâm lí cơ bản của các loại nhóm xã hội ra sao?
+ Quy luật nảy sinh, hình thành và vận động phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội này, quá trình tác động và gây ảnh hưởng về mặt tâm lí giữ các cá nhân trong một nhóm xã hội như thế nào?
- Hoạt động cùng nhau và giao tiếp nhóm cũng được coi là đối tượng của tâm lí học xã hội, vì nó luôn được coi là điều kiện tâm lí cần thiết cho sự phát triển các hiện tượng tâm lí xã hội. Hay nói cách khác: điều kiện cần và đủ để các hiện tượng tâm lí xã hội hình thành, phát triển, vận hành và biểu hiện thông qua hoạt động xã hội và giao tiếp xã hội.
1.2. Mối quan hệ giữa tâm lí du lịch và tâm lí học xã hội
1.2.1. Tâm lí du lịch là gì?
Tâm lí học ngày nay đã trở thành một khoa học độc lập. Tuy vậy, khi khoa học càng được phân ngành cụ thể thì các ngành khoa học cũng thâm nhập vào nhau, liên quan với nhau càng nhiều. Tâm lí có liên quan trực tiếp với các khoa học khác như: sinh lí học, thần kinh học, giải phẫu học, các ngành khoa học xã hội như lịch sử, văn hoá...
Do yêu cầu khách quan của sự phát triển, bản thân tâm lí học được phân ra thành nhiều ngành khác nhau để phục vụ trực tiếp đời sống của con người trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội. Những ngành tâm lí học này được xây dựng trên cơ sở khoa học của tâm lí học với mục đích vận dụng và phục vụ cho những lĩnh vực hoạt động cụ thể như: quân sự, giáo dục, y tế, du lịch...
Có nhiều quan niệm khác nhau về tâm lí khách du lịch, tuỳ theo cách tiếp cận cũng như phạm vi nghiên cứu.
Với cách tiếp cận xem tâm lí khách du lịch là những hiện tượng tâm lí thì tâm lí khách du lịch chính là những đặc điểm tâm lí, những hiện tượng tâm lí của khách du lịch.
Với cách tiếp cận xem tâm lí khách du lịch là một ngành của tâm lí học (theo cách tiếp cận này có thể gọi là tâm lí học khách du lịch), nhằm mục đích vận dụng những thành tựu, những cơ sở khoa học của tâm lí học cho việc nghiên cứu tâm lí của khách du lịch, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra quan niệm cho rằng: Tâm lí khách du lịch là một ngành của tâm lí học, chuyên nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của khách du lịch, nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến tâm lí của khách và nghiên cứu việc vận dụng các thành tựu của khoa học tâm lí trong phục vụ khách du lịch.
Như vậy nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lí khách du lịch bao gồm:
- Cơ chế hình thành, biểu hiện, các quy luật vận động của các hiện tượng tâm lí phát sinh, phát triển, biểu hiện và liên quan đến khách du lịch.
- Các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến tâm lí của khách du lịch.
- Chức năng, vai trò (vận dụng các thành quả nghiên cứu) của tâm lí đối với tâm lí khách du lịch.
Với cách tiếp cận như trên, xem tâm lí khách du lịch là một ngành của tâm lí học, rõ ràng tâm lí khách du lịch có mối quan hệ mật thiết với tâm lí học và tâm lí học xã hội, chúng ta sẽ tìm hiểu mối quan hệ này để nhận biết rõ ràng hơn vị trí của tâm lí khách du lịch trong khoa học tâm lí.
1.2.2. Mối quan hệ giữa tâm lí du lịch và tâm lí học xã hội
Với vai trò là một ngành của tâm lí học, tâm lí khách du lịch có quan hệ mật thiết với tâm lí học nói chung, đặc biệt là đối với tâm lí học xã hội nói riêng:
- Hoạt động du lịch là một hoạt động mang tính xã hội cao. Vì vậy hoạt động du lịch cũng chính là đối tượng của tâm lí học xã hội.
- Vì tâm lí khách du lịch chuyên xem xét, nghiên cứu cơ chế hình thành, biểu hiện, các quy luật vận động, phát sinh, phát triển tâm lí của khách du lịch. Trong các hiện tượng tâm lí này, đa số là các hiện tượng tâm lí xã hội.
- Xét một cách khái quát và chung nhất thì hoạt động du lịch chính là quá trình tương tác, giao lưu giữa bốn nhóm người: khách du lịch, nhà cung ứng du lịch, chính quyền nơi diễn ra hoạt động du lịch, cư dân nơi diễn ra hoạt động du lịch trong đó nhóm người trọng tâm của hoạt động du lịch chính là khách du lịch. Việc nghiên cứu tâm lí của khách du lịch chỉ có thể tiến hành thông qua nghiên cứu những đặc điểm tâm lí chung của các cá nhân trong nhóm, mà những đặc điểm tâm lí chung của các cá nhân trong nhóm chính là các hiện tượng tâm lí xã hội (cái tâm lí xã hội).
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí trong nhân tố con người có hiệu quả nhất. Như vậy trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người nói chung và trong hoạt động du lịch nói riêng việc vận dụng các thành tựu của tâm lí học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Do những đặc trưng riêng của hoạt động du lịch, đứng trên góc độ của những người phục vụ du lịch việc nghiên cứu tâm lí khách du lịch có vai trò rất quan trọng, nó giúp cho quá trình kinh doanh phục vụ đạt kết quả cao hơn:
- Sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ, chất lượng dịch vụ chỉ được đánh giá thông qua quá trình tiêu dùng, khi chưa tiêu dùng thì không thể đánh giá được. Chất lượng dịch vụ không phải là một đại lượng cố định, nó luôn gắn liền với thời gian, không gian tạo ra và tiêu dùng nó. Mặt khác chất lượng dịch vụ còn gắn liền với các đặc điểm tâm lí-xã hội của mỗi người phục vụ và khách du lịch, vì thế chất lượng dịch vụ du lịch không có tính lặp lại, ổn định với khách du lịch nói chung và với từng cá nhân cụ thể. Tóm lại chất lượng dịch vụ du lịch phần lớn phụ thuộc vào các đặc điểm nhân cách và trạng thái tâm lí-xã hội của khách du lịch và người phục vụ du lịch khi họ hoạt động và giao tiếp với nhau. Muốn tạo ra những dịch vụ du lịch có chất lượng đòi hỏi người phục vụ du lịch phải tìm cách điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với những đặc điểm tâm lí và hành vi của khách du lịch.
- Khách du lịch là đối tượng trung tâm của hoạt động du lịch. Để kinh doanh du lịch đạt kết quả tốt cần phải nghiên cứu những đặc điểm tâm lí cũng như hành vi của khách, điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua những thành tựu của tâm lí học nói chung và tâm lí học xã hội, tâm lí du lịch nói riêng. Thông qua việc nghiên cứu nhận biết nhu cầu, sở thích, tâm trạng, thái độ, động cơ... của các nhóm khách du lịch, của từng cá nhân cụ thể để định hướng, điều khiển và điều chỉnh quá trình phục vụ khách du lịch.
- Bên cạnh việc nghiên cứu về khách du lịch, thông qua việc nghiên cứu và vận dụng các thành tựu của tâm lí du lịch sẽ giúp cho nhà cung ứng du lịch nắm được các đặc điểm tâm lí - xã hội của cư dân và chính quyền nơi diễn ra hoạt động du lịch, điều chỉnh các mối quan hệ với các nhóm người này nhằm mang lại sự hài hoà và hợp lý nhất cho quá trình kinh doanh du lịch.
- Hiểu biết về tâm lí nói chung và tâm lí khách du lịch nói riêng giúp cho nhà kinh doanh du lịch, nhân viên phục vụ du lịch... hiểu biết được các đặc điểm tâm lí của mình, biểu hiện và diễn biến trong quá trình phục vụ... Từ đó có những biện pháp thích hợp khắc phục, hoàn thiện năng lực chuyên môn, năng lực giao tiếp và rèn luyện các phẩm chất tâm lí- xã hội cần thiết để tự điều chỉnh tâm lí và hành vi của mình trong quá
trình phục vụ khách. Mặt khác tâm lí - xã hội, tâm lí du lịch còn giúp nhà kinh doanh du lịch vận dụng trong việc quản lý doanh nghiệp như: tuyển dụng, bố trí, tổ chức lao động, xử lý hài hoà các mối quan hệ trong doanh nghiệp.
- Các hiện tượng tâm lí nói chung và các hiện tượng tâm lí xã hội có nhiều ảnh hưởng tác động không nhỏ đến hoạt động du lịch nói chung và tác động, ảnh hưởng đến tâm lí khách du lịch nói riêng, cần được nghiên cứu xem xét và vận dụng.
- Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lí của khách du lịch, sẽ giúp cho những người kinh doanh du lịch, nhân viên phục vụ trong du lịch nhận biết sâu hơn về tâm lí của khách, vận dụng được những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lí của khách du lịch trong quá trình kinh doanh phục vụ.
2. Vận dụng các quy luật tâm lí trong hoạt động du lịch
2.1. Vận dụng các quy luật của đời sống tình cảm
Việc vận dụng các quy luật của đời sống tình cảm có một ý nghĩa thiết thực trong quá trình phục vụ du lịch. Để vận dụng tốt cần phải hiểu được các quy luật này, vận dụng một cách linh hoạt thích hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. (xem mục 2.3. Đời sống tình cảm)
2.2. Vận dụng các kiểu người theo khí chất
Động cơ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hành vi của cá nhân, vì rằng cá nhân không bao giờ hành động một cách vô cớ, mỗi hành động đều có những nguyên nhân của nó, có những yếu tố thúc đẩy con người hành động. Vì vậy khi xem xét hành vi của bất cứ cá nhân nào, người ta đều quan tâm đến động cơ của hành động. Vậy động cơ là gì?
Động cơ của hành động cũng chính là động cơ của nhân cách, nó là hệ thống động lực điều khiển bên trong cá nhân thúc đẩy cá nhân hành động để đạt được những mục đích nào đó. Xét trên phương diện động cơ của nhân cách nó bao gồm các yếu tố: nhu cầu, lý tưởng, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và niềm tin.
Khách tham gia vào hoạt động du lịch, nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch của mình, vì vậy khi xem xét vấn đề động cơ trong hoạt động du lịch người ta chủ yếu xem xét đến nhu cầu. Như vậy hệ thống động lực điểu khiển bên trong cá nhân thúc đẩy cá nhân tham gia hoạt động du lịch chính là nhu cầu du lịch của khách. Chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về nội dung này ở phần nhu cầu du lịch.
2.3. Vận dụng các kiểu người theo thể chất
Căn cứ vào các đặc điểm thể chất của con người, có thể đánh giá, phán đoán những đặc điểm của tâm lí của khách. Các cách phân loại dưới đây căn cứ theo những đặc điểm cơ bản về thể chất, (Loại người theo kiểu xếp hạng của Jendon, Kretschemer và K.Levy).
2.3.1. Loại người mảnh khảnh (người dây)
Đặc điểm thể chất: thân hình phát triển mạnh về chiều cao, kém bề ngang, cổ và mặt dài, vai xuôi, các chi dài và thon, nhẹ cân, đôi mắt tinh ranh, giấc ngủ không sâu, hay chóng mặt.
Đặc điểm tâm lí của loại người này: phản ứng nhanh nhưng hành vi cử chỉ thường tỏ ra lúng túng, giọng nói yếu, nhạy cảm quá cao với đau đớn, không chịu đựng nổi tiếng ồn, có khả năng tự kiềm chế. Hay phân tích, mổ xẻ nội tâm, tình cảm kín đáo, thiên về hoạt động trí óc (thích chơi cờ, ham đọc sách), tư duy trừu tượng phát triển. Thích cái mới lạ, chống lại hoặc coi thường những gì thuộc về truyền thống có tính khuôn sáo tầm thường. Trong quan hệ với người khác thiếu cởi mở, thái độ khó lường trước khi gặp khó khăn trắc trở, lúc buồn chán thường tỏ ra cô độc, giải sầu bằng rượu.
2.3.2. Loại người béo
Đặc điểm thể chất: Có thân hình béo tốt, tròn trĩnh, phát triển về bề ngang, mặt to phị, cổ ngắn, ngực và bụng to, vai hẹp, các chi ngắn, da mịn màng, đầu to và tròn dễ bị hói. Giấc ngủ sâu và dài.
Đặc điểm tâm lí: Phản ứng hơi chậm, tư thế và động tác ẻo lả, tính hồ hởi, tự mãn, giao du rộng thân thiện, thích ăn nhậu. Tôn sùng những gì thuộc về truyền thống. Hay thả mình vào hồi ức tuổi thơ. Hoàn toàn không chịu được cảnh cô đơn, khi gặp rủi ro thường muốn có người an ủi, mau nước mắt, tỏ ra tốt bụng, có tài quyết đoán, thích cái cụ thể thực tế, không ưa tư duy trừu tượng.
2.3.3. Loại người cơ (lực sĩ)
Đặc điểm thể chất: Có hệ xương cơ phát triển, vai rộng, ngực nở, tứ chi dài, to,
da thô.
Đặc điểm tâm lí: Phản ứng mạnh mẽ, nhanh gọn, cử chỉ động tác dứt khoát,
thẳng thắn, ầm ĩ có sức chịu đựng cao, thích rèn luyện thân thể, gánh vác nặng, hoạt động đa dạng, coi thường khó khăn, gian khổ. Thích quyền lực, hay ghen tuông, hay muốn áp đảo “thanh toán” đối thủ, ăn uống không cầu kỳ, khi gặp khó chịu, rủi ro thường đáp lại bằng những hành động mạnh mẽ. Loại người này khi uống rượu thường tỏ ra hung hăng, dữ tợn. Ngoài ra có tính khí hoạt bát, năng nổ và hóm hỉnh, nhu cầu tình dục cao.
Tuy phân chia như vậy, nhưng các cách phân loại theo thể chất nói trên chỉ mang tính chất tương đối. Nhìn chung các nhà tâm lí học đều cho rằng trong mỗi con người có nhiều hình thái pha trộn vào nhau, trong đó chỉ có một loại là trội nhất mà thôi. Ngoài những đặc điểm tâm lí liên quan đến cấu trúc hình thể nói trên, khi xem xét về tâm lí người cần phải nhấn mạnh đến yếu tố cơ bản quyết định tâm lí đó là bản chất xã hội-lịch sử của tâm lí người.
2.4. Quy luật tâm lí về phép dùng người
Các phương pháp khoa học (các quy luật khoa học về con người)
Thông thường nên vận dụng các thành tựu của các khoa học về con người, các quy luật mang tính khoa học đã được chứng minh qua thực tiễn trong việc đáng giá và sử dụng con người. Đặc biệt cần chú ý đến các phương pháp nghiên cứu tâm lí (quan sát, trắc nghiệm, đàm thoại, điều tra, dùng bảng hỏi, thực nghiệm...) để đánh giá những đặc điểm tâm lí, năng lực, trí tuệ, kinh nghiệm, thể lực, sức khoẻ... của con người. Bên cạnh đó cần tham khảo những kinh nghiệm dân gian, tướng mạo học,... Ngoài ra cũng cần tích luỹ kinh nghiệm, kết hợp với linh cảm trực giác để đánh giá và sử dụng con người phù hợp với những vị trí, hoàn cảnh, điều kiện nhất định.
Có một số quy luật tâm lí sau được đúc kết qua lịch sử và thực tiễn.
Quy luật “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”
Đây là quy luật dùng người thích hợp với mình và thích làm việc cùng với những người hợp với mình. Thuật ngữ “hợp” ở đây không nhất thiết phải toàn diện mà có thể chỉ một khía cạnh cơ bản như:
- Cùng ham lợi, cùng muốn có thu nhập cao.
- Cùng tính cách, cùng quan điểm.
- Cùng suy nghĩ về công việc.
- Cùng ham giải trí ở những loại hình thể thao hay nghệ thuật nào đó...
Quy luật về cách sử dụng người
Muốn dùng được người có những ưu điểm gì, thì bản thân người dùng cũng phải có được (hoặc tôn trọng) những ưu điểm đó.
Bàn về phép dùng người, Khổng Minh Gia Cát Lượng đã nói: “Phải biết tính mọi người: có người mềm mỏng mà hay dối trá, có người khiêm tốn mà hay lường gạt, có người trông mạnh bạo mà lòng nhút nhát, có người ra sức làm mà không trung thành”.
Cũng theo ông, thường dùng bảy cách sau để xét đoán lòng người:
- Bàn lẻ phải , trái để xem trí nhớ của họ.
- Biện luận với họ để xem họ biến hoá như thế nào.
- Hỏi mưu kế để xem hiểu biết của họ.
- Hỏi đến việc hy sinh xem họ có dũng cảm hay không.
- Cho họ uống rượu để xem tính tình của họ.
- Đưa lợi lộc để xem xét lòng trung thành.
- Bảo họ hứa hẹn việc gì, để xét sự tin cậy của họ.
Trong phép dùng người, người xưa còn nói “dụng nhân như dùng mộc”, có nghĩa là con người ta nếu biết cách đều có thể dùng người phù hợp với năng lực, tình cảm cũng như các đặc điểm nhân cách của họ.
Những đặc điểm tâm lí cần tránh khi dùng người
- Quá cầu toàn: không mạnh dạn sử dụng người, không dám đưa người dưới quyền vào những công việc khó khăn đòi hỏi họ phải có sự nỗ lực, cố gắng vươn lên.
- Buông lỏng: có nghĩa là không theo dõi, kiểm tra người dưới quyền.
- Điều tai hại nhất cần tránh, là biết người tốt mà không dùng chỉ vì sợ họ có thể sẽ phát triển hơn mình, biết người xấu mà không đào thải chỉ vì họ là người vâng lời, bảo sao làm vậy.
2.5. Vận dụng quy luật hình thành tâm lí xã hội
Theo Nguyễn Đình Chỉnh và Phạm Ngọc Uyển (“Tâm lí học xã hội” NXB Giáo dục, 2001) các hiện tượng tâm lí xã hội được hình thành và phát triển dựa trên các quy luật sau:
- Quy luật kết thừa, lây lan và bắt chước nhau.
- Quy luật tác động qua lại.
- Quy luật gây ảnh hưởng, cảm hoá và để lại dấu ấn trong nhau.
Quy luật kế thừa, lây lan và bắt chước nhau
Trong đời sống tâm lí của từng nhóm xã hội sẽ luôn luôn diễn ra sự kế thừa, lây lan và bắt chước lẫn nhau về những phương thức sống- hoạt động- quan hệ. Sự kế thừa những tinh hoa, di sản quý báu của quá khứ hay của các nhóm xã hội khác sẽ luôn được diễn ra một cách thường xuyên, tích cực, tự giác, sáng tạo và ngày một cao hơn.
Trong các điều kiện cụ thể của những hoạt động xã hội và giao tiếp xã hội, các hiện tượng tâm lí xã hội sẽ luôn luôn được lây lan một cách liên tục từ người này sang người khác, từ nhóm này sang nhóm khác. Trên cơ sở đó, những quá trình bắt chước lẫn nhau về lôgic - phi lôgic, về bản chất - hình thức do mô phỏng lại đối tượng của các hoạt động xã hội, giao tiếp xã hội đó cũng liên tục được nảy sinh. Do vậy, trong nhóm người đó sẽ có thể tạo ra được những điều kiện - phương tiện tâm lí xã hội cần thiết, đảm bảo cho mọi người có thể tiến hành tiếp thu những kinh nghiệm, vốn sống của nhau.
Quy luật tác động qua lại
Khi đã tiến hành thực hiện được một cách hợp lí những nhiệm vụ của các hoạt động xã hội và giao tiếp xã hội ở trong các nhóm xã hội, các hiện tượng tâm lí cá nhân và tâm lí xã hội sẽ luôn có sự tác động qua lại với nhau. Điều này sẽ tạo ra được những điều kiện thuận lợi, làm cho các hiện tượng tâm lí xã hội được hình thành, phát sinh, phát triển và biểu hiện ra trong những hoàn cảnh tương ứng.
Quy luật gây ảnh hưởng, cảm hoá và để lại dấu ấn trong nhau





