Phần thứ hai cụ thể hoá các tình tiết mới được phát hiện là các căn cứ được quy định tại Điều 291 BLTTHS năm 2003 nhưng sửa đổi để tránh nhầm lẫn với căn cứ giám đốc thẩm.
Thứ nhất, về căn cứ lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật cần được bổ sung. Trên thực tế, có trường hợp lời khai không đúng sự thật của chính người bị kết án hay người tham gia tố tụng khác cũng dẫn đến xác định sai sự thật vụ án. Toà án đã áp dụng đúng trình tự, thủ tục luật định trong quá trình xét xử để xác định sự thật nhưng vẫn không phát hiện ra có thông tin sai sự thật trong các lời khai của những người tham gia tố tụng. Việc sử dụng các thông tin này làm cho kết luận của Toà án về vụ việc không đúng, dẫn đến kết luận sai trong bản án, quyết định. Vì vậy căn cứ thứ nhất nên mở rộng không hạn chế trong lời khai của người làm chứng mà có thể tiến hành tái thẩm trong trường hợp lời khai của người tham gia tố tụng có điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định.
Thứ hai, căn cứ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai không nên coi là căn cứ kháng nghị. Việc các chủ thể này có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai là kết quả của hoạt động tố tụng mà họ thực hiện trong từng giai đoạn giải quyết vụ án. Chính vì kết luận các tình tiết, các sự kiện trong các nguồn chứng cứ luật định là bảo đảm tính khách quan và liên quan đến vụ án nên những người tiến hành tố tụng đã sử dụng để đưa ra kết luận sai về sự kiện thực tế. Việc ra bản án, quyết định có sai lầm là do nhận thức sai về sự kiện thực tế, không phải là vi phạm trong việc lựa chọn và áp dụng pháp luật. Nếu có vi phạm trong việc lựa chọn và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án thì đó là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Việc quy định đây là căn cứ kháng nghị tái thẩm dễ gây ra sự nhầm lẫn với căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm quy định tại khoản 2 Điều 273 BLTTHS năm 2003, đó là căn cứ “Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án”. Đồng thời chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến cho rằng chỉ khi người tiến hành tố
tụng sử dụng những chứng cứ không được thu thập theo trình tự, thủ tục đã được quy định rò trong luật để chứng minh thì mới là vi phạm pháp luật và đó là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Khoản 2 Điều 273 BLTTHS năm 2003 kiến nghị sửa đổi như sau: “Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những chứng cứ của vụ án” [29, tr. 154]. (Điều 371 BLTTHS năm 2015 không sửa đổi nội dung khi quy định về căn cứ này).
Thứ ba, về căn cứ “vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo, không đúng sự thật” cũng cần được sửa đổi.
Có ý kiến cho rằng “biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác trong vụ án bị giả mạo không đúng sự thật” phải được quy định là căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm vì chỉ có người tiến hành tố tụng mới có thể làm giả các biên bản này và như vậy là vi phạm pháp luật [26, tr. 25]. Chúng tôi không đồng ý với nhận định trên vì Toà án khi tiến hành xét xử là đánh giá các chứng cứ do các bên đưa ra: chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra có thể dưới nguồn là các loại biên bản; chứng cứ do các chủ thể khác như bị cáo, người bào chữa cung cấp có thể là các tài liệu, đồ vật khác nhau. Chứng cứ rút ra từ các nguồn này có thể bị giả mạo giống như việc người tham gia tố tụng cung cấp lời khai gian dối, hay kết luận giám định sai, lời dịch của người phiên dịch sai. Các biên bản giả mạo tồn tại ngay tại thời điểm Toà án tiến hành xét xử nhưng do không biết nên Toà án vẫn sử dụng để đưa ra kết luận sai cơ bản về sự việc phạm tội. Việc phát hiện có giả mạo trong các biên bản này được coi là tình tiết mới được phát hiện và là căn cứ để kháng nghị tái thẩm [82]. Về nội dung này Khoản 3 Điều 398 BLTTHS năm 2015 ghi nhận thêm một số nguồn chứng cứ có điểm không đúng sự thật như kết luận định giá tài sản, bản dịch thuật. Việc bổ sung này theo chúng tôi là phù hợp với bổ sung về nguồn chứng cứ tại Điều 87 BLTTHS năm 2015. Để phù hợp với quy định về nguồn chứng cứ, tránh trùng lặp trong quy định của pháp luật vì biên bản điều tra cũng là biên bản của hoạt động tố tụng, căn cứ này cần sửa đổi là “vật chứng, biên bản các hoạt động tố tụng, các tài liệu và đồ vật khác bị giả mạo hoặc không đúng sự thật”.
Trên cơ sở phân tích căn cứ kháng nghị tái thẩm, đối chiếu với thực tiễn áp dụng, kiến nghị sửa đổi quy định của pháp luật về căn cứ kháng nghị tái thẩm tại Điều 291 BLTTHS năm 2003 với nội dung như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Số Kháng Nghị Tái Thẩm Trên Tổng Số Bản Án, Quyết Định Có Hlpl Bị Kháng Nghị
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế, Bất Cập Trong Thực Tiễn Tái Thẩm
- Yêu Cầu Nâng Cao Chất Lượng Tái Thẩm Ở Việt Nam
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 17
- Một Số Giải Pháp Khác Nâng Cao Chất Lượng Tái Thẩm Ở Việt Nam
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 19
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
“Điều 291. Căn cứ kháng nghị tái thẩm.
Kháng nghị tái thẩm tiến hành khi mới phát hiện các tình tiết làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định. Các tình tiết này đã tồn tại ở thời điểm Toà án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà Toà án không biết được.
Các tình tiết mới phát hiện là:
1. Lời khai của người tham gia tố tụng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật.
2. Vật chứng, biên bản các hoạt động tố tụng, tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật.
3. Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật”.
* Về thủ tục xác minh tình tiết mới được phát hiện
Nên quy định cụ thể thủ tục kiểm tra, xác minh tình tiết mới trước khi kháng nghị. Bởi vì tài liệu kiểm tra, xác minh không chỉ sử dụng cho việc kết luận có kháng nghị tái thẩm hay không mà còn được sử dụng để Hội đồng tái thẩm xem xét tính đúng đắn của bản án, quyết định có HLPL bị kháng nghị. Quy định về thủ tục kiểm tra, xác minh tình tiết mới bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, quy định rò trách nhiệm của Toà án phải chuyển ngay các tin báo về tình tiết mới phát hiện cho VKS để nhanh chóng kiểm tra, xác minh. Khi VKS yêu cầu Toà án đã xét xử rút hồ sơ vụ án, Toà án có trách nhiệm giao hồ sơ cho VKS trong thời hạn được quy định cụ thể trong BLTTHS.
Thứ hai, nghiên cứu cân nhắc lại việc giao trách nhiệm kiểm tra, xác minh tình tiết mới cho Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 3) khi yêu cầu tái thẩm được đề nghị lên VKSNDTC. Hiện nay gần như Vụ 3 chỉ tập trung vào nhiệm vụ giải quyết án giám đốc thẩm, tái thẩm còn một số nhiệm vụ quan trọng khác đã không được quan tâm thực hiện đúng theo yêu cầu đặt ra như nhiệm vụ tham mưu giúp Viện trưởng VKSNDTC theo dòi, quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra các VKS địa phương về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử hình sự, về kỹ năng tranh tụng, luận tội, tác nghiệp trong hoạt động xét xử; phối hợp với các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, kiểm sát xét xử phúc thẩm để đúc kết, phổ biến kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các địa phương... Mặc dù đã tập trung cho công việc kiểm tra, xác minh đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng cũng không thể giải quyết hết được số lượng đơn tiếp nhận hàng năm.
Để thực hiện việc kiểm tra, xác minh tình tiết mới theo yêu cầu của Viện trưởng VKSNDTC, kiểm sát viên cũng có thể tiến hành các hoạt động như lấy lời khai, thu thập vật chứng, dựng lại hiện trường, trưng cầu giám định, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình và phải đưa vào hồ sơ vụ án, lưu vào hồ sơ kiểm sát hình sự.
Với những phân tích trên, cân nhắc giao nhiệm vụ kiểm tra, xác minh tình tiết mới phát hiện cho Cơ quan điều tra. Việc kiểm tra, xác minh tình tiết mới vẫn được tiến hành bởi VKSNDTC nhưng do bộ phận có chuyên môn nghiệp vụ điều tra, giảm tải một phần công việc, tạo điều kiện cho Vụ 3 hoàn thành các nhiệm vụ khác. Thứ ba, các hoạt động kiểm tra, xác minh nên quy định tiến hành với trình tự,
thủ tục như hoạt động điều tra quy định trong BLTTHS, yêu cầu lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án. Kết quả của hoạt động kiểm tra, xác minh được gửi cho Viện trưởng VKS có thẩm quyền kháng nghị để quyết định việc kháng nghị tái thẩm.
Quy định về xác minh tình tiết mới có thể được xây dựng như sau: “Điều 292. Thông báo và xác minh tình tiết mới được phát hiện
1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân khi phát hiện tình tiết mới của vụ án có quyền báo cho Viện kiểm sát hoặc Toà án. Toà án có trách nhiệm chuyển ngay tin báo này cho Viện kiểm sát có thẩm quyền. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị ra quyết định xác minh tình tiết mới.
2. Quá trình xác minh tình tiết mới, tuỳ từng trường hợp cụ thể, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có quyền áp dụng các biện pháp điều tra quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, lập biên bản, đưa vào hồ sơ vụ án”.
* Về thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
Điều 40 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định hệ thống VKSND bao gồm: VKSNDTC; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; VKSND
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; VKS quân sự các cấp. Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm sẽ tập trung chủ yếu vào VKSND cấp cao. Quy định như vậy giải quyết được tình trạng quá tải hiện nay. VKSNDTC sẽ không còn phải quá tập trung vào các sự vụ cụ thể, có điều kiện để thực hiện những nhiệm vụ ở tầm vĩ mô.
Ngoài ra, trường hợp rút kháng nghị tái thẩm trước khi Toà án tái thẩm, việc tái thẩm được đình chỉ nhưng BLTTHS lại chưa có quy định tạo cơ sở pháp lý để áp dụng. Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 và Luật tổ chức VKSND năm 2014, thẩm quyền kháng nghị tái thẩm kiến nghị sửa đổi như sau:
“Điều 293. Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự cấp quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự khu vực.
4. Trong thời hạn ba ngày, kháng nghị tái thẩm được gửi cho:
a) Toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị;
b) Toà án sẽ tiến hành tái thẩm;
c) Người bị kết án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị.
5. Viện kiểm sát có quyền ra văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị chuyển hồ sơ vụ án để xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, Toà án có trách nhiệm chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.
6. Trước khi bắt đầu phiên toà, người kháng nghị có quyền bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 295 của Bộ luật này hoặc rút kháng nghị. Trường hợp rút toàn bộ quyết định kháng nghị, việc tái thẩm phải được đình chỉ nếu không có kháng nghị khác”
4.2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục tái thẩm tại Toà án
* Về thẩm quyền tái thẩm
Thứ nhất, quy định thẩm quyền tái thẩm phù hợp với tổ chức và hoạt động của Toà án trong Luật tổ chức TAND năm 2014.
Theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, “tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” trong đó “TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Trong quá trình triển khai, tổng kết thực hiện nhận thấy quy định thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm tập trung vào TANDTC vẫn tồn tại tình trạng quá tải nên đã có điều chỉnh trong Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, VKS và Cơ quan điều tra. Trên tinh thần này Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định thẩm quyền tái thẩm ở hai cấp Toà án là TANDTC; TAND cấp cao và TAQS trung ương. Kiến nghị thẩm quyền tái thẩm sửa đổi như sau:
“Điều 296. Thẩm quyền tái thẩm
1. Ủy ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi lãnh thổ.
2. Toà án quân sự trung ương tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự khu vực.
2. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân cấp tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Ủy ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao, Ủy ban thẩm phán Toà án quân sự trung ương.
3. Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền tái thẩm của các cấp khác nhau được quy định tại các
khoản 1, 2 của Điều này thì Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tái thẩm toàn bộ vụ án.
Quyết định tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, cuối cùng, không bị kháng nghị”.
Việc bổ sung quy định về hiệu lực tuyệt đối của quyết định tái thẩm do TANDTC ban hành nhằm tránh tình trạng khiếu nại tư pháp kéo dài không có hồi kết. Tuy nhiên việc bổ sung quy định này phải được tiến hành đồng bộ cùng với các quy định khác bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; khắc phục được cơ bản các vi phạm pháp luật, sai lầm trong nhận thức từ các giai đoạn trước và việc tiến hành tái thẩm hay giám đốc thẩm chỉ là hãn hữu, mang tính cá biệt chứ không phải phổ biến như hiện nay. Việc bổ sung quy định này phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 22 Luật tổ chức TAND năm 2014.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về thành phần Hội đồng tái thẩm tại TAND cấp cao và TANDTC cho phù hợp với quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014.
Theo quy định tại Điều 23 và Điều 32 Luật tổ chức TAND năm 2014 việc tổ chức xét xử: tại Hội đồng thẩm phán TANDTC có thể bằng Hội đồng gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Hội đồng thẩm phán TANDTC; tại Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao có thể bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao. Để tránh trường hợp ngay tại TANDTC và TAND cấp cao sẽ hình thành hai cấp tái thẩm, chúng tôi có cùng ý kiến với Dự thảo BLTTHS trình Quốc hội khoá XIII thông qua vào kỳ họp thứ 10 quy định Hội đồng tái thẩm bằng toàn thể thành viên Hội đồng thẩm phán đối với những bản án có HLPL của TAND cấp cao về các vụ án có tính chất đặc biệt liên quan đến lợi ích quốc gia, được dư luận đặc biệt quan tâm [89].
BLTTHS năm 2003 quy định thành phần Hội đồng tái thẩm giống thành phần Hội đồng giám đốc thẩm. Do vậy việc sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm tại Điều 281 BLTTHS năm 2003 cũng chính là sửa đổi quy định về thành phần Hội đồng tái thẩm. Kiến nghị tách thành hai điều luật riêng và quy định như sau:
“Điều 281. Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Ủy ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao
1. Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng gồm ba Thẩm phán là thành viên Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương bị kháng nghị.
2. Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng nghị hoặc đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương bị kháng nghị mà xét thấy cần trực tiếp giám đốc thẩm.
3. Khi giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia do Chánh án Toà án nhân dân cấp cao làm Chủ tọa phiên toà. Quyết định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Khi giám đốc thẩm bằng Hội đồng gồm ba Thẩm phán là thành viên Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao thì một Thẩm phán được Chánh án Toà án nhân dân cấp cao phân công làm chủ tọa phiên toà. Hội đồng biểu quyết và quyết định theo đa số.
Điều 281a. Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (mới)
1. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng gồm năm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp cao.
2. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp cao có nội dung quan trọng liên quan đến lợi ích quốc gia, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.