yếu là các khoản vay cầm cố, thế chấp bằng nhà cửa, tài sản hoặc chứng khoán. Tiếp đó là đầu tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại khác vay. Nhìn chung những người được vay tiền tại các ngân hàng này cũng chính là những người đã gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Lãi suất cho vay thường rất thấp vì nó mang tính chất tương trợ nhiều hơn là kinh doanh.
Ở Việt nam không có ngân hàng tiết kiệm riêng biệt, hầu như tất cả các ngân hàng thương mại đều có bộ phận quỹ tiết kiệm để huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư nhằm hình thành nguồn vốn chung của ngân hàng thương mại.
2.1.4. Quỹ tín dụng
Quỹ tín dụng được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động theo nguyên tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và bình đẳng. Các thành viên của quỹ góp tiền vào quỹ dưới hình thức mua thẻ thành viên (tương tự như cổ phiếu) có mệnh giá bằng nhau. Sau đó, cùng nhau bầu ra người quản lý. Các thành viên của quỹ được hưởng quyền vay tiền của quỹ khi cần. Khi cần thêm vốn, quỹ phát hành thêm thẻ thành viên và tiếp nhận thêm những thành viên mới. Thông thường quỹ không cho người ngoài vay tiền. Ngoài cho các thành viên vay, quỹ có thể đầu tư vào chứng khoán.
Ở Việt nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới dạng các tổ chức tín dụng hợp tác. Đây là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng theo Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác. Theo Luật Các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng hợp tác được huy động vốn của các thành viên và của các tổ chức cá nhân để cho các thành viên vay. Việc cho các đối tượng không phải là thành viên vay phải được Đại hội thành viên hoặc Đại hội đại biểu chấp thuận và không được vượt quá tỷ lệ tối đa do Ngân hàng Nhà nước quy định”.
2.2. Các tổ chức không nhận tiền gửi (Các tổ chức phi ngân hàng)
Loại tổ chức này bao gồm các tổ chức như:
2.2.1. Công ty bảo hiểm
Là tổ chức có nhiệm vụ thanh toán một khoản tiền khi có một sự cố xảy ra cho những người được quyền thụ hưởng khoản tiền này với các khoản đóng góp trước của họ cho công ty. Công ty bảo hiểm hoạt động với tư cách là người chấp nhận rủi ro.
Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm các tai nạn, mất trộm, cháy (bảo hiểm tài sản và tai nạn), ốm đau, mất khả năng làm việc (bảo hiểm sức khoẻ và thương tật), chết (bảo hiểm nhân thọ).
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Chức Năng Của Thị Trường Tài Chính
- Thị Trường Sơ Cấp Và Thị Trường Thứ Cấp
- Khái Niệm, Chức Năng Và Vai Trò Của Các Tổ Chức Tài Chính Trung Gian
- Căn Cứ Vào Giá Trị Thực Của Tiền Lãi Thu Được
- Ngân Hàng Hoạt Động Theo Nguyên Tắc Dự Trữ 100%
- Quản Lý Nguồn Vốn Và Tài Sản Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước khi bồi thường nên công ty bảo hiểm có một khoảng thời gian từ dưới 1 năm cho tới hàng chục năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ bảo hiểm khi chưa dùng để bồi thường sẽ được đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản hoặc thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính khác như góp vốn liên doanh, thành lập công ty chứng khoán, cung cấp các khoản tín dụng trực tiếp...
2.2.2. Quỹ hưu trí
Là một quỹ được thiết lập để thanh toán những khoản lợi ích cho người lao động khi họ về hưu. Thành lập ra quỹ này là các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, các nghiệp đoàn lao động và các cá nhân có nhu cầu. Đặc điểm của quỹ này là nó liên quan đến việc đầu tư vào một tài sản rất kém tính thanh khoản, đó là hợp đồng về tiền hưu trí. Tài sản này không được đem sử dụng, dù chỉ là thế chấp một khoản tiền vay cho đến khi về hưu. Tuy nhiên, lợi thế của quỹ này là các khoản đóng góp này được phép đóng thuế chậm. Về thực chất, quỹ hưu trí là một hình thức trả công của người chủ mà người làm công không bị đánh thuế cho đến khi rút số tiền này ra.
2.2.3. Quỹ đầu tư
Là những tổ chức tài chính trung gian bán cổ phần (bằng việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư) ra công chúng và đầu tư số tiền thu được vào một dự án hay một danh mục đầu tư chứng khoán được đa dạng hoá.
Nhờ vào ưu thế vốn đầu tư lớn, các quỹ đầu tư có thể giảm thiểu chi phí giao dịch bằng cách mua bán chứng khoán với số lượng lớn và hạn chế rủi ro bằng cách đa dạng hoá danh mục các chứng khoán nắm giữ. Không chỉ vậy, ưu thế vượt trội của các quỹ đầu tư so với các nhà đầu tư riêng lẻ còn thể hiện ở chỗ chúng được đặt dưới sự quản lý của các chuyên gia về kinh doanh chứng khoán.
Bên cạnh các quỹ đầu tư đầu tư vào cả cổ phiếu và trái phiếu, còn xuất hiện các quỹ chuyên đầu tư vào từng loại chứng khoán, ví dụ các quỹ chuyên đầu tư vào các cổ phiếu thường hoặc các quỹ chuyên đầu tư vào các chứng khoán nợ. Các quỹ đầu tư vào cổ phiếu thường còn được chuyên môn hoá hơn nữa, chẳng hạn chỉ nắm giữ các chứng khoán nước ngoài hoặc chứng khoán của một ngành kinh tế nào đó, ví dụ: ngành năng lượng hoặc công nghệ cao. Các quỹ đầu tư vào chứng khoán nợ cũng được chuyên môn hoá vào trái phiếu công ty hoặc trái phiếu chính phủ, vào chứng khoán ngắn hạn hoặc dài hạn.
Các quỹ đầu tư được tổ chức theo hai hình thức: các quỹ đầu tư mở và các quỹ đầu tư đóng.
- Các quỹ đầu tư mở: liên tục phát hành thêm chứng chỉ đầu tư mới khi có người
muốn đầu tư vào quỹ hoặc hoàn lại vốn cho các chứng chỉ cũ theo giá trị tài sản ròng của chúng. Giá trị tài sản ròng của mỗi chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư mở bằng tổng giá trị thị trường của các chứng khoán mà quỹ đó nắm giữ chia cho tổng số chứng chỉ đã phát hành của quỹ.
- Các quỹ đầu tư đóng: chỉ huy động vốn một lần từ các nhà đầu tư trong lần phát hành chứng chỉ đầu tư ra công chúng lúc thành lập. Quỹ đầu tư đóng không phát hành thêm chứng chỉ đầu tư để huy động thêm vốn và cũng không chấp nhận hoàn vốn cho các chứng chỉ này. Các chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư đóng được mua bán trên thị trường như các cổ phiếu thường. Khác với chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư mở, giá của các chứng chỉ của quỹ đầu tư đóng có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị tài sản ròng của chúng, tuỳ thuộc vào các yếu tố như tính lỏng của các chứng chỉ này và trình độ quản lý quỹ.
Trên thế giới, loại hình quỹ đầu tư mở phổ biến hơn so với quỹ đầu tư đóng do cổ phần của quỹ đầu tư mở có tính lỏng cao hơn. Quỹ đầu tư thường đặt dưới sự quản lý của các công ty đầu tư chuyên nghiệp hoặc các tổ chức tài chính khác. Các công ty này thu phí quản lý quỹ xấp xỉ 0,5% giá trị tài sản của quỹ mỗi năm.
3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHỦ YẾU CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
- Các tổ chức tài chính trung gian là những tổ chức làm cầu nối giữa những chủ thể cung ứng vốn và chủ thể có nhu cầu vốn trên thị trường.
Trong quá trình hoạt động, các tổ chức tài chính trung gian phát hành các công cụ tài chính để huy động vốn trên thị trường, sau đó sử dụng số vốn này để đầu tư, cung cấp cho thị trường tài chính dưới các hình thức cho vay hoặc mua các loại chứng khoán... Thông qua hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian sẽ góp phần vào quá trình phân phối, điều hòa các nguồn tài chính nhằm thỏa mãn cao nhất nhu cầu các các chủ thể trong nền kinh tế.
- Các tổ chức tài chính trung gian là tổ chức kinh doanh tiền tệ - tín dụng.
Chênh lệch giữa mức lãi suất hoặc lợi nhuận đầu tư cao hơn khi cho vay đầu tư so với các khoản lãi phải thanh toán cho người gửi tiết kiệm, người cho vay tạo ra thu nhập cho những tổ chức tài chính trung gian.
Như vậy, bằng hoạt động của mình, các tổ chức tài chính trung gian mang lại thu nhập cho những người có những khoản tiết kiệm nhỏ, giúp những người vay có thể vay những khoản tiền lớn, đồng thời tạo ra thu nhập cho chính bản thân các tổ chức tài chính trung gian.
4. LÃI SUẤT TÍN DỤNG
4.1. Tín dụng
4.1.1. Khái niệm
Tín dụng xuất phát từ chữ Credit trong tiếng Anh – có nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được hiểu theo tiếng Việt là sự vay mượn.
Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Trong thực tế, tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng, nhưng ở bất cứ dạng nào, tín dụng cũng thể hiện hai mặt cơ bản: (1) người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định và (2) đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn. Phần trăm tăng thêm được gọi là phần lợi hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất.
Quá trình vận động của tín dụng có thể mô tả thông qua sơ đồ sau:
Người cho vay (người sở hữu vốn)
Người đi vay (người sử dụng vốn)
(1) Cho vay
(2) Trả nợ
Sơ đồ 5.1: Quy trình vận động của tín dụng
Từ khái niệm tín dụng, có thể nói tín dụng có những đặc điểm cơ bản:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng lượng vốn từ người này sang người khác.
- Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời. Đó chính là thời gian sử dụng vốn.
- Người đi vay phải hoàn trả đúng hạn cho người cho vay cả gốc và lãi.
4.1.2. Phân loại tín dụng
Để thấy rò hơn về tín dụng, người ta thường dựa vào những tiêu thức dưới đây để phân loại các hình thức tín dụng.
4.1.2.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, người ta chia tín dụng thành tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm; thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ cho nhu cầu thanh toán cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời hạn từ 1 – 5 năm; dùng để cho vay vốn mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công
trình quy mô nhỏ của các doanh nghiệp và cho vay xây dựng nhà ở hoặc mua sắm hàng tiêu dùng có giá trị lớn của cá nhân.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm; được sử dụng để cung cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
4.1.2.2. Phân loại theo đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình thành vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế khác như cho vay để dự trữ hàng hóa, mua nguyên vật liệu cho sản xuất. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình thành vốn cố định cho doanh nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế khác. Loại này được dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật mở rộng sản xuất, xây dựng các công trình mới. Loại tín dụng này thường được thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn.
4.1.2.3. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cấp cho các doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, các hàng hóa khác và cho cả những nhu cầu hàng ngày.
4.1.2.4. Phân loại theo chủ thể tín dụng
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hóa.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức…
- Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức…
4.1.2.5. Phân loại theo tính chất đảm bảo tiền vay
- Tín dụng đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng được đảm bảo bằng các loại tài sản của khách hàng, bên bảo lãnh hoặc hình thành từ vốn vay.
- Tín dụng đảm bảo không phải bằng tài sản: là loại tín dụng được đảm bảo dưới các hình thức tín chấp, cho vay theo chỉ định của Chính phủ hoặc chính quyền địa phương…
4.1.2.6. Phân loại theo lãnh thổ hoạt động của tín dụng
- Tín dụng nội địa: là quan hệ tín dụng phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Tín dụng quốc tế: là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, phân loại tín dụng theo các tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi tín dụng ngày càng phát triển đa dạng và mở rộng phạm vi hoạt động, thì cách phân loại tín dụng càng chi tiết.
4.1.3. Các hình thức tín dụng theo chủ thể tín dụng
4.1.3.1. Tín dụng thương mại
a. Khái niệm
Tín dụng thương mại là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hóa.
Trong hình thức bán chịu hàng hóa, người bán chịu là người cho vay chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng lượng giá trị hàng hóa cho người mua chịu – người đi vay. Người mua chịu được phép sử dụng số vốn đó sau một thời gian mới hoàn trả cho người bán chịu.
Đối với bán chịu hàng hóa, người bán có hàng cần bán, người mua chưa có tiền hoặc chưa đủ tiền để mua nên họ thực hiện tín dụng thương mại. Người bán chịu có lợi là đẩy nhanh tiêu thụ hàng hóa, thu được lãi tiền vay. Người mua chịu có được hàng hóa để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
b. Đặc điểm của tín dụng thương mại
- Tín dụng thương mại là hoạt động tín dụng cho vay bằng hàng hóa. Hàng hóa cho vay là một bộ phận của vốn sản xuất bị chuyển hóa thành tiền.
- Người đi vay và người cho vay đều là các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng thương mại gắn liền với sự vận động của tái sản xuất xã hội do vốn cho vay là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh.
c. Công cụ của tín dụng thương mại
Đối với hình thức bán chịu hàng hóa, công cụ lưu thông là thương phiếu.
Thương phiếu là một loại giấy nhận nợ xác định quyền đòi nợ của người sở hữu thương phiếu và nghĩa vụ phải hoàn trả của người mua khi đến hạn.
Thương phiếu có thể do người mua hoặc do người bán lập ra. Do vậy, thương phiếu có 2 loại:
- Hối phiếu: là loại thương phiếu do người bán lập ra, yêu cầu người mua chịu khi đến hạn phải thanh toán tiền cho người hưởng thụ (có thể chính là người bán chịu hay cũng có thể là người hưởng thụ khác).
- Lệnh phiếu (kỳ phiếu): là loại thương phiếu do người mua lập ra, cam kết sau một thời gian sẽ thanh toán số tiền nợ nhất định cho người hưởng thụ (có thể chính là người bán chịu hay cũng có thể là người hưởng thụ khác).
d. Vai trò của tín dụng thương mại
- Góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được thực hiện liên tục, chu kỳ sản xuất được rút ngắn và từ đó tăng nhanh vòng quay vốn của doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.
- Thông qua tín dụng thương mại có thể điều tiết vốn một cách trực tiếp giữa các doanh nghiệp. Do đó, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn kịp thời, giảm nhẹ sự lệ thuộc vốn vào các tổ chức tín dụng.
- Tín dụng thương mại làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông và làm giảm chi phí lưu thông trong xã hội.
- Sự phát triển của tín dụng thương mại tạo điều kiện mở rộng sự hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua các nghiệp vụ chiết khấu và cầm cố thương phiếu.
4.1.3.2. Tín dụng ngân hàng
a. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và một bên là các tác nhân trong nền kinh tế (doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội…).
b. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Huy động vốn và cho vay được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ. Đây là hình thức tín dụng phổ biến, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi khách hàng.
- Các ngân hàng đóng vai trò các tổ chức trung gian tín dụng.
Khi huy động vốn trong nền kinh tế, ngân hàng sử dụng nhiều hình thức tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau. Khi cho vay, ngân hàng chủ yếu sử dụng các hình thức cấp tín dụng theo tài khoản cho vay, gửi vốn tại các ngân hàng khác. Như vậy, ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian, đi vay để cho vay.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.
Tín dụng ngân hàng là bộ phận không thể thiếu của quá trình tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tín dụng ngân hàng không tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa mà chúng được sử dụng vào những mục đích phi sản xuất như mua bán cổ phiếu, trái phiếu…
c. Công cụ của tín dụng ngân hàng
Đối với hoạt động huy động vốn, ngân hàng là người đi vay và nhận về các giấy nhận nợ như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu…
Đối với hoạt động cho vay, ngân hàng và người đi vay ký kết hợp đồng tín dụng để thực hiện các khoản vay.
d. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng một cách tối đa nhu cầu vốn của các tác nhân trong nền kinh tế do khối lượng tín dụng lớn.
- Thời hạn tín dụng phong phú và đa dạng do thời hạn của một khoản tín dụng ngân hàng tùy thuộc vào thời hạn nhàn rỗi của các nguồn vốn và nhu cầu đi vay của khách hàng.
- Tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt động rộng do có thể huy động và cho vay đối với mọi doanh nghiệp cũng như các tác nhân khác thuộc các thành phần kinh tế, các lĩnh vực của nền kinh tế.
4.1.3.3. Tín dụng nhà nước
a. Khái niệm
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội.
Trong quan hệ tín dụng này, nhà nước là chủ thể tổ chức thực hiện các quan hệ tín dụng để phục vụ các chức năng của mình.
Tín dụng nhà nước có thể được thực hiện bằng tiền hoặc hiện vật tùy thuộc vào khả năng và tính chất của các nguồn vốn nhưng chủ yếu là bằng tiền, còn hiện vật chỉ sử dụng ít trong một số trường hợp.
Tín dụng nhà nước là loại tín dụng mang tính chất tín chấp. Nhà nước dùng uy tín của mình để đảm bảo trả nợ đúng hạn số tiền đã vay. Tuy nhiên, nhà nước cần phải tính toán kỹ nhu cầu vay và có biện pháp sử dụng có hiệu quả vốn vay để tạo nguồn tài chính vững chắc cho việc hoàn trả nợ.
b. Các hoạt động của tín dụng nhà nước
- Nhà nước đi vay.
Đây là hoạt động truyền thống và cũng là hoạt động trong nền kinh tế hiện đại. Nhà nước đi vay bằng cách phát hành trái phiếu hoặc tín phiếu, ký kết các hiệp định vay nợ… tùy thuộc vào mức độ thiếu hụt của ngân sách nhà nước và nhu cầu vốn đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Các đối tác của nhà nước bao gồm: cá nhân, tổ chức kinh tế xã hội, tổ chức tín dụng, ngân hàng trung ương, Chính phủ và các tổ chức nước ngoài.