→ số lần đặt hàng trong kỳ là: Qn/Q Cd là chi phí cho mỗi lần đặt hàng.
FD là tổng chi phí đặt hàng → FD = Cd * Qn/Q
2Cd *Qn
C1
FT là tổng chi phí tồn kho → FT = FL + FD = C1 * Q/2 + Cd * Qn/Q.
Tổng chi phí tồn kho thấp nhất ↔ FT min ↔ (FT)Q’ = 0 ↔ Q* = Trong đó Q* là lượng đặt hàng tối ưu
Số lần thực hiện hợp đồng tối ưu trong kỳ là Qn/Q*
Độ dài thời gian dự trữ tối ưu của một chu kỳ hàng tồn kho (là khoảng thời gian giữa hai lần đặt hàng kế nhau hay số ngày cung cấp cách nhau) là:
360/ Qn/Q* = 360 x Q*/ Qn.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Kiểm Kê, Đánh Giá Lại Tài Sản Cố Định
- Mức Tiết Kiệm Vốn Lưu Động Do Tăng Tốc Độ Luân Chuyển Vốn
- Doanh Thu Từ Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh (Doanh Thu Tiêu Thụ Sản Phẩm)
- Thị Trường Sơ Cấp Và Thị Trường Thứ Cấp
- Khái Niệm, Chức Năng Và Vai Trò Của Các Tổ Chức Tài Chính Trung Gian
- Các Tổ Chức Không Nhận Tiền Gửi (Các Tổ Chức Phi Ngân Hàng)
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tài chính doanh nghiệp là gì? Trình bày vai trò của tài chính doanh nghiệp.
2. Tổ chức tài chính doanh nghiệp phải tuân thủ những nguyên tắc nào?
3. Trình bày các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp. Liên hệ với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
4. Tài sản cố định là gì? Phân loại tài sản cố định.
5. Trình bày các nội dung quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp.
6. Khấu hao tài sản cố định là gì? Trình bày các phương pháp khấu hao tài sản cố định.
7. Tài sản lưu động là gì? Trình bày vai trò của hàng tồn kho đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
8. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là gì? Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh.
9. Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
10. Lợi nhuận là gì? Trình bày hướng phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.
11. Doanh nghiệp X mua một TSCĐ với giá mua là 315 triệu đồng, chi phí trước khi đưa vào sử dụng là 5 triệu đồng. Thời gian sử dụng là 5 năm. Tính mức trích khấu hao hằng năm của tài sản cố định theo phương pháp đường thẳng và phương pháp số dư giảm dần.
12. Doanh nghiệp X mua một TSCĐ với giá mua là 405 triệu đồng, chi phí trước khi đưa vào sử dụng là 25 triệu đồng. Thời gian sử dụng là 7 năm. Tính mức trích khấu hao hằng năm của tài sản cố định theo phương pháp số dư giảm dần có điều chỉnh ở 2 năm cuối.
CHƯƠNG 4: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Thị trường là một khái niệm cơ bản của kinh tế học và được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa.
Trong từng thời kỳ khác nhau thì khái niệm về thị trường cũng khác nhau. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, thị trường được hiểu là một cơ chế độc lập, tự hoạt động, tự điều tiết.
Ngày nay, cơ cấu kinh tế hiện đại do các yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật và việc quốc tế hoá đời sống kinh tế tạo nên, thị trường được hiểu là một yếu tố của một hệ thống kinh tế phức tạp, trong đó các qui luật thị trường luôn luôn biến đổi và vố số những thể chế điều tiết (đặc biệt là thể chế nhà nước) tác động qua lại với nhau một cách chặt chẽ.
Vì thế, nếu chúng ta hiểu thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hoá thì không sai nhưng chưa đủ, vì với cách hiểu đó chúng ta không thấy được sự hiện diện của thị trường lao động, thị trường địa ốc,… (đây là những loại thị trường mới hình thành) là thị trường không có chợ để mua bán tập trung. Đồng thời, nó cũng không cho chúng ta thấy được một số thị trường mua bán những loại hàng hoá vô hình như: thị trường vốn, thị trường dịch vụ,…
Xét về mặt bản chất, thị trường là sự kết hợp của các yếu tố: hàng hoá, cung cầu giá cả, và phương thức thanh toán. Nơi nào, lúc nào có đủ 5 loại yếu tố trên thì sẽ diễn ra hoạt động của thị trường. Với việc tìm ra được bản chất của thị trường đã giúp chúng ta thấy được tất cả các loại thị trường kể cả thị trường vô hình. Ngoài 5 yếu tố giống nhau ở trên thì các thị trường chỉ còn khác nhau ở: qui mô thị trường rộng hay hẹp, phổ biến hay chưa phổ biến, hiện đại hay thô sơ.
Thị trường tài chính thể hiện rất nhạy cảm mọi hoạt động của các thị trường hàng hoá và dịch vụ. Nó được ví như là thị trường phái sinh từ nền kinh tế thực, nó đo lường và phản ảnh hiệu quả kinh doanh và hiện trạng của nền kinh tế thực. Thị trường tài chính ra đời đã làm đa dạng hoá và phức tạp hoá mọi hoạt động tài chính. Thị trường tài chính không chỉ chịu ảnh hưởng của nền kinh tế mà nó còn gây ra nhiều tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Vì thế, nó có vai trò nhất định đối với sự vận hành kinh tế và trở thành công cụ đắc lực giúp nhà nước quản lý có hiệu quả nền kinh tế.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh tế không chỉ bao gồm các mối quan hệ cung cầu về hàng hoá mà còn xuất hiện quan hệ cung cầu về tiền tệ. Quan hệ này xuất hiện tất yếu dẫn đến nhu cầu vận động nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, chủ yếu diễn ra trên thị trường tài chính. Thuật ngữ thị trường tài chính được sử dụng để phân biệt thị trường mua bán, giao dịch các loại chứng khoán (tài sản tài chính) với các thị
trường khác (thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động...).
Nếu thị trường hàng hoá hữu hình mua bán các loại sản vật cụ thể, nhìn thấy được, sờ được (lúa, gạo, cafê,...) nghĩa là đó là thị trường hữu hình. Còn thị trường tài chính là nơi mua bán các loại hàng hoá theo đúng tên gọi đặc trưng của nó: đó là tài chính. Đây là loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì đến đặc tính và vật thể của hàng hoá đó, giá trị của nó dựa vào trái quyền hợp phát trên một lợi ích tương lai nào đó. Hàng hoá của thị trường tài chính là những loại hình thay thế tiền mặt. Để có nó, người ta đem tiền mặt đi đổi bằng các hình thức như: mua, ký gửi, cho vay,... Sở dĩ người ta làm như vậy là vì nó tạo ra lãi suất mà tiền mặt không làm được. Khi thị trường tài chính phát triển, người ta dễ dàng đem chuyển đổi những loại hàng hoá đó trở thành tiền mặt. Xã hội ngày càng phát triển thì người ta càng thích cất giữ những loại hàng hoá thay cho tiền mặt bởi lẽ nó cũng là tiền nhưng lại sinh lãi trong mỗi ngày.
2. KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
2.1. Khái niệm
Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn trong khi những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường, đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu,... Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn.
Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua, bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển thị trường tài chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới kết quả đầu tư của các cá nhân của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
2.2. Chức năng của thị trường tài chính
2.2.1. Huy động vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn
Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những người dư thừa vốn sang những người cần vốn. Với những người dư thừa vốn, thu nhập lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các tổ chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, Chính phủ, các tổ chức, cá nhân khác lại cần vốn. Sự dịch chuyển vốn này được thực hiện theo sơ đồ sau:
TÀI TRỢ GIÁN TIẾP
Người đi vay vốn
- Hộ gia đình
- Doanh nghiệp
- Chính phủ
- Nước ngoài
CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
Vốn Vốn
Người cho vay vốn
- Hộ gia đình
- Doanh nghiệp
- Chính phủ
- Nước ngoài
Vốn
Vốn
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
TÀI TRỢ TRỰC TIẾP
Sơ đồ 4.1: Sự dịch chuyển vốn trong thị trường tài chính
Qua sơ đồ trên, sự dịch chuyển vốn được thực hiện thông qua hai con đường, tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Trong tài trợ trực tiếp, những người cần vốn huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các giấy tờ có giá cho họ. Các giấy tờ có giá này là các công cụ tài chính, cung cấp quyền yêu cầu về thu nhập, tài sản và các quyền khác cho chủ sở hữu đối với người phát hành. Cách thứ hai để dẫn vốn là tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm và các trung gian tài chính khác có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tập trung, tích tụ và phân phối vốn trong nền kinh tế.
Như vậy, thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó, làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả người có vốn và người cần vốn.
2.2.2. Xác định giá cả của các tài sản tài chính
Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu trên thị trường), giá cả của các tài sản tài chính được xác định, hay nói cách khác, lợi tức yêu cầu của tài sản tài chính được xác định. Vì vậy, thị trường tài chính là nơi hình thành nên giá cả của các tài sản tài chính – các hàng hoá trên thị trường đó.
2.2.3. Tạo tính thanh khoản cho các tài sản tài chính
Thị trường tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, như vậy thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nếu thiếu tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm giữ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản.
Mức độ thanh khoản của các thị trường tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường.
2.2.4. Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường
Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần phải bỏ ra các chi phí như chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí tìm kiếm thông tin trong quá trình trước, trong và sau khi ra các quyết định đầu tư. Nhờ tính tập trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung cấp đầy đủ, chính xác và nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi phí đối với các bên tham gia giao dịch và góp phần tăng hiệu quả đối với các chủ thể trên thị trường cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế.
2.2.5. Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh
Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính. Vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
2.2.6. Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ
Thị trường tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Chức năng này được thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác của ngân hàng trung ương trên thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Thông qua đó, chính phủ có thể huy động được nguồn vốn lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, ngân hàng trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh lượng cung cầu ngoại tệ nhằm giúp chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái.
Như vậy, thị trường tài chính có chức năng hết sức quan trọng không những đối với nền kinh tế mà còn cả đối với từng cá nhân, tổ chức kinh tế. Thị trường tài chính tạo điều kiện cho phép chuyển vốn từ những người có tiền nhàn rỗi và không có cơ hội đầu tư hiệu quả sang cho người có cơ hội đầu tư, có khả năng sản xuất, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thị trường tài chính cũng trực tiếp
cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn. Thị trường tài chính hoạt động hiệu quả sẽ trực tiếp cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
3. CHỦ THỂ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
3.1. Chủ thể đi vay
- Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần một lượng vốn nhất định. Tuy nhiên, nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp thường vượt quá vốn tự có nhất là khi doanh nghiệp thực hiện các dự án lớn về đầu tư thay đổi máy móc thiết bị, công nghệ chế tạo sản xuất mới thì càng thiếu vốn. Điều này khiến cho các doanh nghiệp thường xuyên có nhu cầu huy động nguồn tài chính từ các chủ thể khác để phát triển và mở rộng hoạt động.
- Nhà nước
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước cần một lượng của cải vật chất nhất định. Trong điều kiện ngân sách nhà nước có hạn thì bội chi ngân sách nhà nước là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, nhà nước cần huy động thêm nguồn tài chính thuộc sở hữu của các chủ thể khác trong nền kinh tế để bù đắp bội chi ngân sách, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
- Các chủ thể khác
Các chủ thể khác trong nền kinh tế cũng thường xuyên cần huy động tạm thời các nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu của mình như: các tổ chức tín dụng cần huy động thêm nguồn vốn để cho vay; các hộ gia đình, các tầng lớp dân cư cần huy động nguồn tài chính để trang trải nhu cầu chi tiêu vượt quá khả năng tài chính của mình...
3.2. Chủ thể cho vay
- Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
Trong khi nhiều doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì có các doanh nghiệp khác có các khoản thu nhập chưa có nhu cầu sử dụng như: doanh thu tiêu thụ chưa đến hạn thanh toán, số tiền quỹ khấu hao tài sản cố định chưa dùng, lợi nhuận để lại chưa dùng đến... Những khoản này có thể trở thành những khoản cho vay.
- Hộ gia đình và các tầng lớp dân cư
Các chủ thể này cũng có thể có khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế bằng những khoản tiền tiết kiệm của mỗi gia đình, của mỗi cá nhân; hoặc bằng của cải thừa kế, thu nhập dư thừa không đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh. Tuy số lượng của từng gia đình và cá nhân không nhiều nhưng nếu biết tập hợp chúng lại thành một khối thì chúng trở thành một nguồn lực vô cùng to lớn.
- Các chủ thể khác
Ngoài ra, các quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội, các quỹ bảo hiểm khi chưa có nhu cầu sử dụng đến cũng có thể được dùng để cho vay.
4. CẤU TRÚC CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận.
4.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành, thị trường tài chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần.
Thị trường nợ là thị trường mà hàng hoá được mua bán ở đó là các công cụ nợ. Thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông.
4.1.1. Thị trường nợ
Thực chất của việc phát hành các công cụ nợ trên thị trường nợ là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc và lãi. Người cho vay không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả theo cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Các công cụ nợ có thời hạn xác định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Tín phiếu và trái phiếu là hai công cụ điển hình của các công cụ nợ.
4.1.2. Thị trường vốn cổ phần
Hàng hóa của thị trường vốn cổ phần là cổ phiếu. Người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của công ty. Cổ đông là chủ sở hữu công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty. Cổ phiếu là không có thời hạn vì chúng không thể xác định cụ thể ngày mãn hạn. Người sở hữu cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lại cổ phiếu đó trên thị trường thứ cấp hoặc khi công ty tuyên bố phá sản.
4.2. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn (có kỳ hạn dưới 1 năm) được mua bán. Còn thị trường vốn là thị trường giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn.