Mức Tiết Kiệm Vốn Lưu Động Do Tăng Tốc Độ Luân Chuyển Vốn

+ Cần ổn định nguồn nguyên vật liệu, hàng hoá.

+ Doanh nghiệp đặt mua máy móc, thiết bị sản xuất kinh doanh. Số tiền trả trước để đảm bảo thực hiện hợp đồng của bên mua.

- Phải thu nội bộ: Xét từ góc độ hạch toán kinh tế có 2 dạng doanh nghiệp là doanh nghiệp độc lập và doanh nghiệp liên hợp gồm tổng công ty, tập đoàn, liên hiệp (gọi chung là tổng công ty). Trừ các doanh nghiệp nhỏ, mỗi doanh nghiệp này đều có 2 bộ phận là đơn vị (hay doanh nghiệp) cấp trên và đơn vị (hay doanh nghiệp) cấp dưới. Đơn vị cấp dưới còn gọi là đơn vị thành viên gồm các đơn vị trực thuộc hoặc phụ thuộc có tổ chức kế toán riêng. Đơn vị cấp trên và các đơn vị cấp dưới gọi là các đơn vị nội bộ trong doanh nghiệp độc lập, tổng công ty. Các khoản phải thu nội bộ hình thành do cấp dưới có nghĩa vụ nộp lên cấp trên hoặc cấp trên phải cấp cho cấp dưới hoặc do các đơn vị nội bộ đã thu hộ chi hộ cho nhau hoặc giữa các đơn vị cấp dưới với nhau về bán hàng nội bộ. Các khoản phải thu nội bộ thường là: Đơn vị cấp dưới phải thu về số lỗ hoạt động sản xuất kinh doanh đã được cấp trên chấp nhận cấp bù, phải thu bổ sung các quỹ từ cấp trên (ở đơn vị phụ thuộc như viện nghiên cứu), đơn vị cấp trên phải thu của các đơn vị cấp dưới để lập các quỹ là quỹ quản lý của cấp trên (chỉ có ở cấp trên và được tính vào chi phí của doanh nghiệp cấp dưới), quỹ phát triển kinh doanh dự trữ, khen thưởng, phúc lợi, thu một phần lãi kinh doanh và thu hồi vốn kinh doanh đã giao.

- Các khoản phải thu khác: các khoản phải thu về bồi thường vật chất đã có quyết định bồi thường, các khoản phải thu về lãi đầu tư tài chính...

- Dự phòng các khoản phải thu khó đòi: là khoản dự kiến bị tổn thất của các khoản phải thu sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo do con nợ không có khả năng thanh toán. Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh có những khoản thu mà người nợ khó có khả năng trả do bị thiệt hại lớn về tài sản. Các khoản tiền nợ của những người này gọi là các khoản phải thu khó đòi. Để đề phòng những tổn thất do các khoản phải thu khó đòi có thể xảy ra gây đột biến về kết quả kinh doanh trong kỳ hạch toán tiếp theo và tạo điều kiện cho việc bảo toàn vốn thì cuối niên độ kế toán doanh nghiệp phải dự kiến số nợ có khả năng khó đòi, tính trước vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ hạch toán. Số tính trước này được gọi là dự phòng các khoản phải thu khó đòi. Việc lập dự phòng nhằm phản ánh đúng giá trị thực tế thuần tuý các khoản phải thu của doanh nghiệp để đưa ra một hình ảnh trung thực về tài sản của doanh nghiệp khi lập báo cáo. Giá trị của các khoản phải thu được xác định trên báo cáo là giá trị toàn bộ các khoản phải thu sau khi đã trừ đi dự phòng phải thu khó đòi tại thời điểm báo cáo. Về nguyên tắc, căn cứ lập dự phòng là phải có bằng chứng đáng tin cậy về các khoản nợ phải thu khó đòi như là đã làm thủ tục đòi nợ nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả. Nếu sau đó, việc đòi nợ kéo dài trong nhiều năm mà vẫn không

thu được thì doanh nghiệp xoá nợ phải thu khó đòi trên sổ kế toán và chuyển ra theo dòi riêng ngoài bảng dưới dạng nợ khó đòi đã xử lý và ghi giảm vốn kinh doanh. Nhưng nếu thu được thì ghi vào kết quả kinh doanh trong kỳ.

4.1.2.3. Hàng tồn kho

Hàng tồn kho được chia thành 3 loại:

a. Hàng tồn kho nằm trong quá trình dự trữ, chuẩn bị sản xuất

- Hàng mua đang đi trên đường: là hàng hoá doanh nghiệp đã thanh toán hoặc đã chấp nhận thanh toán nhưng chưa nhập kho.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.

- Nguyên vật liệu tồn kho (đã nhập kho).

- Dụng cụ trong kho: là loại tài sản không thể dùng đến đâu mua sắm đến đó mà phải luôn có một số lượng dự trữ để đảm bảo quá trình sản xuất được liên tục.

Tài chính tiền tệ - 11

Các chỉ tiêu này trong bảng tổng kết tài sản thể hiện giá trị các tài sản đó tại thời điểm báo cáo. Giá trị hàng mua đang đi trên đường tính theo giá mua. Nhưng giá trị nguyên vật liệu, dụng cụ tính theo giá trị thực tế. Giá trị thực tế gồm giá mua theo hoá đơn cộng với các chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng như:

+ Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu (nếu có), chi phí vận chuyển, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, thuê kho bãi... khi các chi phí này chưa tính vào giá mua.

+ Chi phí thu mua (nếu có).

Việc tính theo giá trị thực tế tạo điều kiện cho việc hạch toán chi phí thuận lợi. Trong lĩnh vực tài chính khái niệm giá mua, giá trị được hiểu là tổng giá chứ không phải là giá đơn vị hàng hoá, hay đơn giá, giá cả.

b. Hàng tồn kho đang trong quá trình trực tiếp sản xuất

Tồn tại dưới dạng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang hay còn gọi là bán thành phẩm. Có loại tài sản này là do quy trình công nghệ sản xuất không thể cho ra thành phẩm ngay được. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang không chỉ bao gồm giá trị nguyên vật liệu được sử dụng vào sản xuất kinh doanh mà còn bao gồm cả chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung (chi phí phục vụ sản xuất kinh doanh phát sinh trong quá trình chế tạo sản phẩm như chi phí nhân viên phân xưởng, khấu hao tài sản cố định của phân xưởng...)

c. Hàng tồn kho nằm trong quá trình dự trữ tiêu thụ

- Thành phẩm tồn kho: là thành phẩm do doanh nghiệp chế tạo còn chưa tiêu thụ. Loại tài sản này chỉ có ở doanh nghiệp sản xuất. Giá trị thành phẩm tồn kho được đánh giá theo giá thành sản xuất, bao gồm các loại chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chuyển vào thành phẩm.

- Hàng hoá tồn kho: là hàng hóa còn tồn trong kho hàng, quầy bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại. Giá trị hàng hoá tồn kho tính theo giá thực tế.

- Hàng gửi đi bán: là thành phẩm, hàng hoá đang gửi đi bán dưới dạng ký gửi, đại lý hoặc dịch vụ đã hoàn thành nhưng chưa được chấp nhận thanh toán. Những tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên chưa được tính vào doanh thu bán hàng trong kỳ hay chưa được tính vào các khoản phải thu trong kỳ.

- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho: là khoản giảm giá nguyên vật liệu, thành phẩm, hàng hoá tồn kho dự kiến sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo. Chủ yếu xảy ra đối với thành phẩm, hàng hoá và hàng gửi đi bán. Khi thấy hàng tồn kho bị giảm giá liên tục cần lập ngay dự phòng giảm giá. Trong doanh nghiệp có 3 loại tài sản có khả năng bị giảm giá trị thực tế so với giá trị ghi trên sổ sách nên cần phải lập dự phòng, đó là dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng giảm giá đầu tư tài chính. Ý nghĩa của việc lập dự phòng giảm giá giống như dự phòng phải thu khó đòi.

Chỉ tiêu hàng tồn kho là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị các loại hàng tồn kho dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sau khi đã trừ dự phòng giảm giá hàng tồn kho tại thời điểm báo cáo.

Trên bảng cân đối kế toán, các tài sản lưu động thường được sắp xếp theo tính lỏng. Tính lỏng (tính thanh khoản) của tài sản là khả năng nó có thể chuyển sang tiền mặt nhanh đến mức nào mà không chịu nhiều phí tổn (mất giá của tài sản). Như vậy có 2 tiêu chuẩn để đánh giá mức độ lỏng của từng tài sản là: thời gian chuyển thành tiền nhanh hay chậm và độ rủi ro mất giá của tài sản. Tài sản của doanh nghiệp có tính lỏng được xắp xếp theo mức độ giảm dần như sau: Tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu (trong đó có các thương phiếu) và hàng tồn kho.

Việc nghiên cứu tính lỏng của tài sản giúp cho nhà quản lý bố trí cơ cấu tài sản có tính lỏng một cách hợp lý để đáp ứng yêu cầu trả nợ kịp thời và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc không cần dự trữ tài sản bằng tiền nhiều mà dự trữ 1 phần dưới dạng đầu tư tài chính ngắn hạn nhất là các chứng khoán và dưới dạng thương phiếu. Người cho vay cũng quan tâm đến tính lỏng của tài sản để quy định và đánh giá khả năng chi trả của doanh nghiệp.

4.1.2.4. Tài sản lưu động khác

Ngoài 3 loại tài sản lưu động luôn luôn tồn tại kể trên, tuỳ doanh nghiệp và tuỳ từng thời kỳ có thể có các loại tài sản lưu động khác, trong đó có 3 dạng điển hình là:

- Tạm ứng cho người lao động: Là khoản tiền hoặc vật tư do doanh nghiệp giao cho người lao động để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hoặc giải quyết công việc nào đó được phê duyệt.

- Chi phí trả trước (chi phí đợi phân bổ): Là chi phí thực tế đã phát sinh có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều kỳ hạch toán nên chưa thể tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phát sinh mà được tính cho cả hai hay nhiều kỳ tiếp theo như chi phí mua các loại bảo hiểm, các loại lệ phí trả một lần trong năm, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định... Chỉ tiêu này trong bảng tổng kết tài sản phản ánh số tiền đã thanh toán cho một số khoản chi phí nhưng đến cuối kỳ hạch toán chưa được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ báo cáo.

- Các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn: Các tài sản đem cầm cố, ký cược, ký quỹ vẫn thuộc tài sản doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không có quyền sử dụng và cũng không giữ tài sản này vì vậy cần tách ra khỏi khối tài sản doanh nghiệp đang giữ để đánh giá đúng khả năng thanh toán của doanh nghiệp và theo dòi thu hồi. Các loại tài sản đem cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn có tính thanh khoản cao, nếu để chung với các tài sản cùng loại đang thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp thì không thể đánh giá đúng khả năng chi trả của doanh nghiệp. Người cho vay yêu cầu doanh nghiệp giao cho họ cầm giữ tài sản là vàng, bạc, đá quý, các giấy tờ có giá và vật có giá trị khác để đảm bảo trả nợ. Còn những tài sản cầm cố, thế chấp bằng giấy tờ sở hữu như nhà xưởng, máy móc thiết bị , phương tiện vận tải... thì doanh nghiệp không thể chuyển nhượng cho người khác nên vẫn được sử dụng và không cần tách riêng thành một loại tài sản.

Ký cược là việc bên thuê, mượn tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá hoặc các vật có giá trị khác nhằm ràng buộc người đi thuê sử dụng tốt tài sản và hoàn trả tài sản thuê đúng thời hạn. Tiền đặt cược do bên có tài sản cho thuê quy định, có thể bằng hoặc lớn hơn trị giá của tài sản cho thuê. Ví dụ, cửa hàng đặt cược tiền vỏ chai với nhà máy bia.

Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ giao một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ có giá cho bên nhận ký quỹ giữ hoặc gửi tiền vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng để đảm bảo thực hiện hợp đồng trong quan hệ mua bán, đại lý bán hàng, đấu thầu, mở thư tín dụng... Tiền ký quỹ thông thường do người bán hàng hoá, dịch vụ yêu cầu. Khác với hợp đồng vay, thuê, mượn tài sản, trong các hợp đồng cần ký quỹ các bên không giao tài sản cho nhau nên tiền ký quỹ không cao so với giá trị hợp đồng, thường 5 - 7%. Riêng mở thư tín dụng mang tính chất vay nợ nên có thể phải ký quỹ 100% nếu ngân hàng không tin tưởng vào người mở L/C.

Chỉ tiêu các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn phản ánh giá trị tài sản còn đang cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn. Trường hợp đặt cọc giống như ký quỹ, chỉ khác là tài sản đặt cọc không gửi ngân hàng mà giao cho bên kia cầm giữ, thường chỉ áp dụng trong các hợp đồng dân sự.

Các loại tài sản lưu động kể trên (trừ loại tài sản lưu động khác) là những mắt xích trong vòng tuần hoàn của tài sản lưu động nên thường khi tài sản lưu động này tăng kéo theo tài sản lưu động khác giảm. Sự biến động của mỗi loại tài sản được doanh nghiệp theo dòi bằng cách mở cho nó một tài khoản. Chẳng hạn khi thu được tiền của khách hàng bằng chuyển khoản thì khoản phải thu cụ thể là phải thu của khách hàng giảm, đồng thời tài sản dạng tiền và cụ thể là tiền gửi ngân hàng tăng lên; khi hàng mua được nhập kho thì tài sản là hàng mua đang đi trên đường giảm, đồng thời nguyên vật liệu tồn kho tăng; xuất tiền mua nguyên vật liệu thì tài sản là tiền giảm, hàng mua đang đi trên đường tăng. Cách phân loại tài sản lưu động như trên có ý nghĩa trong việc xác định cơ cấu dự trữ các tài sản lưu động (kể cả dự trữ bằng tiền và dưới các khoản phải thu) hợp lý để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đồng thời không để tài sản lưu động dự trữ quá mức gây lãng phí vốn và giúp đưa ra biện pháp quản lý phù hợp với từng loại. Chẳng hạn thành phẩm ứ đọng nhiều do tiêu thụ chậm, doanh nghiệp cần đưa ra biện pháp như hạ giá, khuyến mại... với khoản phải thu thì đôn đốc khách hàng trả nợ kịp thời.

4.2. Quản lý hàng hóa vật tư tồn kho

Trong việc quản lý tài chính doanh nghiệp, quản lý hàng tồn kho là một vấn đề rất đáng chú ý. Trong đó, xác định nhu cầu nguyên vật liệu dự trữ là vấn đề cơ bản nhất. Nếu mức dự trữ nguyên vật liệu, phụ tùng (gọi chung là vật tư) không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh thù có thể xảy ra hai trường hợp:

- Mức dự trữ quá lớn, dư thừa gây ứ đọng, lãng phí vốn và hiệu quả thấp.

- Mức dự trữ quá nhỏ, thiếu vật tư, gây ra tình trạng căng thẳng hoặc thậm chí phải tạm ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.

Cả hai thái cực trên đều không tốt, do đó, người ta cần xác định mức dự trữ thích hợp nhất với công ty trong từng điều kiện cụ thể.

4.3. Phân tích vòng quay vốn lưu động

4.3.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động

Tốc độ luân chuyển vốn lưu động (VLĐ) nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu động cao hay thấp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu: số lần luân chuyển hay số vòng quay vốn lưu động và kỳ luân chuyển vốn lưu động.

Số lần luân chuyển hay số vòng quay vốn lưu động trong kỳ

Doanh thu thuần trong kỳ

=

Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ

Số ngày trong kỳ

Kỳ luân chuyển vốn lưu động =

Số vòng quay vốn lưu động

Số ngày trong kỳ được tính chẵn với 1 năm là 360 ngày, 1 quý là 90 ngày và 1 tháng là 30 ngày.

Kỳ luân chuyển vốn lưu động tỷ lệ nghịch so với số lần luân chuyển của vốn lưu động. Nếu doanh nghiệp rút ngắn kỳ luân chuyển vốn lưu động thì sẽ tăng số vòng quay vốn lưu động.

4.3.2. Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn

Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động của kỳ này so với kỳ gốc.

Vốn lưu động

Doanh thu thuần kỳ này * (Kỳ luân chuyển VLĐ kỳ này –

=

tiết kiệm

4.3.3. Hàm lượng vốn lưu động

360

Kỳ luân chuyển VLĐ kỳ gốc)


Hàm lượng vốn lưu động (còn gọi là mức độ đảm nhiệm vốn lưu động) là số vốn lưu động cần có để đạt một đồng doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm. Tức là để có một đồng doanh thu thuần về bán hàng thì cần phải có bao nhiêu vốn lưu động.

Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ

Hàm lượng vốn lưu động =


Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ


5. CHI PHÍ, DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP

5.1. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

5.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh

Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị vật tư tiêu dùng, giá trị hao mòn của tài sản cố định, tiền lương hay tiền công và các khoản chi tiêu bằng tiền khác mà doanh nghiệp phải trả để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.

Chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm:

- Chi phí cho việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ

Là chi phí về các loại vật tư như nguyên vật liệu, nhiên liệu,…; chi phí về hao mòn máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác; tiền lương hay tiền công cho những người lao động tham gia vào quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ.

- Chi phí tiêu thụ sản phẩm (chi phí bán hàng)

Là chi phí về tiền công hay tiền lương cho nhân viên bán hàng, tiêu dùng các loại vật liệu dùng cho việc bảo quản sản phẩm trong quá trình tiêu thụ, chi phí về hao mòn tài sản cố định, chi phí nghiên cứu thị trường, quảng cáo và bảo hành sản phẩm…

- Chi phí quản lý doanh nghiệp

Là chi phí về tiền lương hay tiền công cho các nhân viên quản lý, chi phí về hao mòn tài sản cố định dùng cho quản lý…

- Chi phí khác

Là những chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp như tiền thuế môn bài, tiền bảo hiểm tài sản…

5.1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

5.1.2.1. Phân loại theo nội dung kinh tế

Phương pháp phân loại này sắp xếp những chi phí có cùng nội dung kinh tế vào một loại và mỗi loại được gọi là một yếu tố chi phí. Phân loại theo nội dung kinh tế là dựa vào hình thái của chi phí bỏ vào sản xuất kinh doanh mà không phân biệt chi phí đó dùng ở đâu và dùng cho sản phẩm nào.

Tùy theo yêu cầu quản lý sẽ có các số lượng khác nhau về các yếu tố chi phí. Thông thường người ta chia chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành các yếu tố chi phí sau:

- Chi phí vật tư: là toàn bộ giá trị nguyên vật liệu, nhiên liệu… mua từ bên ngoài dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.

- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền khấu hao tài sản cố định trong kỳ.

- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương: là toàn bộ tiền lương hay tiền công, các khoản chi phí có tính chất tiền lương và chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn mà doanh nghiệp phải trả, phải nộp trong kỳ.

- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền phải trả về các dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ do các đơn vị khác ở ngoài cung cấp như: điện, nước, điện thoại, tiền bốc xếp và vận chuyển hàng hóa, tiền hoa hồng đại lý, tiền mua bảo hiểm tài sản, tiền thuê kiểm toán, tư vấn, quảng cáo và các dịch vụ mua ngoài khác.

- Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi phí bằng tiền ngoài các chi phí đã nêu trên như: thuế môn bài, thuế sử dụng đất hoặc tiền thuê đất, chi phí tiếp khách, giao dịch đối ngoại, chi phí tuyển dụng, các khoản dự phòng giảm giá...

Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế cho thấy mức chi phí về vật tư và lao động trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong năm. Việc phân loại này giúp doanh nghiệp lập được dự toán chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, kiểm tra sự cân đối giữa các bộ phận trong doanh nghiệp.

5.1.2.2. Phân loại theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh

Theo phương pháp phân loại này, có thể sắp xếp những chi phí có cùng công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh vào một loại và mỗi loại như vậy được gọi là một khoản mục chi phí. Có những khoản mục chi phí sau:

- Chi phí vật tư trực tiếp: là chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu được sử dụng trực tiếp vào việc chế tạo sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.

- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm các khoản trả cho người lao động trực tiếp sản xuất như: tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất.

- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí chung phát sinh ở các phân xưởng hoặc ở các bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương và phụ cấp trả cho nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ, khấu hao tài sản cố định thuộc phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng.

- Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm như: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, vận chuyển, bảo quản… khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu, bao bì, dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo…

- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như chi phí về công cụ, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp và các chi phí phát sinh ở phạm vi toàn doanh nghiệp khác như tiền lương và phụ cấp trả cho Hội đồng quản trị, ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu, đồ dùng văn phòng…

Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí giúp doanh nghiệp có thể tập hợp chi phí và tính giá thành cho từng loại sản phẩm, có thể quản lý chi phí tại các địa điểm phát sinh chi phí, quản lý tốt chi phí, khai thác các khả năng nhằm hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.

5.1.2.3. Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh

Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh và sản lượng hàng hóa, dịch vụ hoặc doanh thu, có thể chia chi phí thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.

- Chi phí cố định: là những chi phí không thay đổi theo sự thay đổi của sản lượng sản xuất hay quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm: chi phí khấu hao tài sản cố định, tiền lương cho cán bộ, nhân viên quản lý, thuế môn bài…

- Chi phí biến đổi: là các chi phí thay đổi theo sự thay đổi của sản lượng sản xuất hay quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu, tiền lương lao động trực tiếp sản xuất, hoa hồng bán hàng…

Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi của từng loại chi phí theo quy mô

Xem tất cả 209 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí