tác đầu tư liên doanh, an toàn trong việc sử dụng vốn… An toàn và mạo hiểm trong kinh doanh là hai thái cực đối lập nhau. Mạo hiểm trong đầu tư thường phải chấp nhận nhiều rủi ro lớn, nhưng cũng thường thu được lợi nhuận cao và ngược lại. Điều này đòi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết sách đúng đắn trong các thời cơ thích hợp để lựa chọn phương án đầu tư vừa đảm bảo an toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phương án an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc tham gia bảo hiểm. Mặt khác, hình thức phát hành cổ phiếu cũng là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các cổ đông nhằm tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên tắc rất cơ bản cần được quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp. Để sử dụng tốt công cụ tài chính doanh nghiệp, cần thiết phải tìm hiểu những nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp.
2. QUẢN LÝ NGUỒN VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Trong nội dung hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý và sử dụng vốn là khâu quan trọng nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý và sử dụng vốn bao gồm nhiều khâu như xác định nhu cầu vốn, khai thác tạo lập vốn, đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn…Vậy vốn là gì, nó có những đặc trưng gì trong quá trình vận động của nó. Nhận thức được vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong việc định ra những luận cứ cho các phương pháp quản lý vốn.
2.1. Khái niệm
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp dùng vốn đó để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy, số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà nó còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tư tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời.
Vốn trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Vốn của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, nó vừa tồn tại dưới hình thái tiền vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.
Ở đây cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thỏa mãn những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định (tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực).
Có thể bạn quan tâm!
- Chi Cho Các Quỹ Hỗ Trợ Đầu Tư Quốc Gia Và Các Quỹ Hỗ Trợ Phát Triển
- Đối Tượng Đánh Thuế (Đối Tượng Chịu Thuế)
- Khái Niệm Và Bản Chất Của Tài Chính Doanh Nghiệp
- Quản Lý Kiểm Kê, Đánh Giá Lại Tài Sản Cố Định
- Mức Tiết Kiệm Vốn Lưu Động Do Tăng Tốc Độ Luân Chuyển Vốn
- Doanh Thu Từ Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh (Doanh Thu Tiêu Thụ Sản Phẩm)
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Thứ hai, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh.
Thứ ba, khi đã đủ về số lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau:
Trường hợp đầu tư vào sản xuất: T – H … SX … H’ – T’ Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại: T – H – T’
Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu trái phiếu, góp vốn liên doanh...: T – T’
Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể vận dụng đồng thời cả ba phương thức đầu tư vốn tiền tệ theo các mô hình trên miễn sao đạt được mục tiêu có mức doanh lợi cao và nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Mục đích vận động của tiền vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn.
2.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
Nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Vốn đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, song căn cứ vào đặc điểm trách nhiệm pháp lý có 2 loại là nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả (ngắn hạn và dài hạn). Cách phân loại này đồng thời cho thấy thời hạn sử dụng của các nguồn vốn.
2.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp nên doanh nghiệp không có trách nhiệm phải trả vốn đó cho người khác. Số liệu về vốn chủ sở hữu giúp cho thấy trong số giá trị tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu được dùng để đảm bảo trả nợ.
Có 2 nguồn hình thành vốn chủ sở hữu là vốn tự có và nguồn kinh phí. Vốn tự có được tạo thành từ vốn góp của chủ doanh nghiệp và lợi nhuận để lại, ngoài ra còn có
thể từ viện trợ, biếu tặng.
2.2.1.1. Vốn tự có
a. Nguồn vốn kinh doanh
Nguồn vốn kinh doanh là nguồn vốn tạo ra các tài sản đang phục vụ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy đây là nguồn vốn chính tạo nên vốn tự có. Nguồn vốn kinh doanh được hình thành chủ yếu từ 2 nguồn:
- Từ sự đóng góp của chủ doanh nghiệp (chủ sở hữu) khi thành lập doanh nghiệp và đóng góp bổ sung trong quá trình hoạt động. Nguồn vốn đóng góp ban đầu có ý nghĩa quan trọng trong việc xin giấy phép thành lập. Muốn thành lập doanh nghiệp, vốn tự có ít nhất bằng vốn pháp định. Vốn pháp định là số vốn tối thiểu cần thiết để doanh nghiệp hoạt động được bình thường do Nhà nước quy định phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh. Vốn tự có ban đầu khi thành lập doanh nghiệp gọi là vốn điều lệ vì được ghi trong điều lệ hoạt động của doanh nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp tư nhân không cần có điều lệ hoạt động thì gọi là vốn kinh doanh. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vốn tự có ban đầu gọi là vốn pháp định. Vốn điều lệ, vốn tự có ban đầu của doanh nghiệp tư nhân ít nhất phải bằng vốn pháp định, thường trong thực tế lớn hơn vốn pháp định.
Trong quá trình kinh doanh, các chủ sở hữu có thể góp vốn bổ sung tăng vốn điều lệ (tăng nguồn vốn kinh doanh), chẳng hạn công ty cổ phần phát hành cổ phiếu mới. Ngược lại khi trả vốn cho chủ sở hữu thì nguồn vốn kinh doanh bị giảm.
b. Bổ sung từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp
Đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho sự phát triển vốn tự có.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn tự có liên tục được bổ sung từ lợi nhuận thu được nhưng không bắt buộc phải đăng ký tăng vốn điều lệ vì vậy vốn tự có nói chung và nguồn vốn kinh doanh nói riêng luôn lớn hơn vốn điều lệ đang đăng ký.
2.2.1.2. Nguồn kinh phí
- Quỹ quản lý của cấp trên: Chỉ có ở các doanh nghiệp cấp trên được phép lập quỹ quản lý, đó là tổng công ty. Quỹ hình thành do các đơn vị cấp dưới nộp lên để chi tiêu cho bộ máy quản lý của đơn vị cấp trên. Chỉ tiêu này phản ánh số tiền quỹ quản lý của cấp trên hiện còn chưa chi dùng.
- Nguồn kinh phí sự nghiệp: Chỉ tiêu nguồn kinh phí sự nghiệp phản ánh số kinh phí được cấp đã chi tiêu nhưng chưa được quyết toán hoặc chưa sử dụng. Số tiền chi sự nghiệp bên tài sản ứng với số tiền của nguồn kinh phí sự nghiệp đã chi tiêu nhưng chưa được quyết toán. Kinh phí chưa sử dụng là hiệu số giữa chỉ tiêu nguồn kinh phí sự nghiệp và chi sự nghiệp.
Nguồn kinh phí là của ngân sách nhà nước và cấp trên cấp nên khi chưa sử dụng hoặc chưa được quyết toán thì vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp vì vậy vốn tự có không bao gồm chỉ tiêu này.
2.2.2. Nợ phải trả
Nợ phải trả là số tiền mà doanh nghiệp vay, thuê tài chính cho nên doanh nghiệp có trách nhiệm trả cho các chủ nợ số tiền đó sau 1 thời hạn nhất định. Có 4 nguồn hình thành nợ phải trả:
- Vay nợ (nợ vay): thông qua các hình thức vay ngân hàng, phát hành trái phiếu, vay cán bộ công nhân viên, vay chính phủ. Có thể vay trong nước và nước ngoài. Còn hình thức tín dụng thương mại thuộc các khoản phải trả, giống như khoản cấp tín dụng thương mại thuộc phải thu của khách hàng.
- Thuê tài chính.
- Các khoản phải trả gồm có nợ tiền hàng, nợ thuế, nợ lương. Các khoản này hình thành do 2 nguyên nhân sau:
+ Do chế độ thanh toán đem lại nên có thời hạn ngắn và không phải trả lãi như thuế, tiền lương chưa đến kỳ phải trả, tiền hàng chưa đến ngày hết hạn thanh toán… vì trong tiền bán hàng thu được đã có chứa thuế, tiền lương nhưng các khoản nợ này trả theo định kỳ nên chưa đến kỳ trả thì doanh nghiệp được tạm thời sử dụng. Các hình thức thanh toán ngay (trừ thanh toán bằng tiền mặt) cũng sau 1 thời gian từ khi chấp nhận trả tiền (tức là từ khi sở hữu hàng hoá dịch vụ) mới phải thanh toán.
Khoản phải trả kể trên sẽ trở thành vốn chiếm dụng bất hợp pháp nếu không được trả nợ đúng hạn. Tỷ lệ vốn chiếm dụng bất hợp pháp trên tổng số vốn chiếm dụng của không ít doanh nghiệp hiện nay rất cao, cho thấy tình hình tài chính khó khăn và kết quả kinh doanh yếu kém của những doanh nghiệp đó.
+ Do doanh nghiệp mua chịu hàng hoá dịch vụ, tức là thanh toán về sau.
- Nhận ký quỹ, ký cược, chi phí trả trước…
Trong các nguồn nợ phải trả trên thì vay nợ, thuê tài chính và mua chịu có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng quy mô kinh doanh và hiện đại hoá thiết bị.
Toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp còn có thể chia thành nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn. Nguồn vốn dài hạn gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn. Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc đánh giá, bố trí nguồn vốn ngắn hạn, dài hạn phù hợp với thời hạn đầu tư của tài sản.
3. QUẢN LÝ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
3.1. Khái niệm và phân loại tài sản cố định của doanh nghiệp
3.1.1. Khái niệm
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu mà nó có đặc điểm cơ bản là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất không thay đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị loại khỏi quá trình sản xuất, giá trị của nó chuyển dịch dần từng phần vào giá trị của sản phẩm sản xuất ra. Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được.
Những tư liệu lao động được coi là tài sản cố định khi thỏa mãn đồng thời hai tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn về thời gian: có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
- Tiêu chuẩn về giá trị: phải có giá trị lớn, mức giá trị cụ thể được quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ.
Trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật như hiện nay, khái niệm tài sản cố định được mở rộng bao gồm cả những tài sản cố định không có hình thái vật chất. Loại này là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra cũng đồng thời thỏa mãn hai tiêu chuẩn trên và được gọi là tài sản cố định vô hình như: bằng phát minh sáng chế, lợi thế kinh doanh…
3.1.2. Phân loại tài sản cố định
Phân loại tài sản cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
3.1.2.1. Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện và công dụng kinh tế
Theo tiêu thức này, tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai loại: tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
a. Tài sản cố định hữu hình
Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh.
Căn cứ vào công dụng kinh tế, tài sản cố định hữu hình được chia thành các nhóm sau:
Nhóm 1: nhà cửa, vật kiến trúc – là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, cầu cống, đường sắt, cầu cảng…
Nhóm 2: Máy móc, thiết bị - là toàn bộ máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ…
Nhóm 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn – gồm các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sông, đường biển… và các thiết bị truyền dẫn về thông tin, điện nước, băng truyền tải vật tư, hàng hóa…
Nhóm 4: Thiết bị, dụng cụ quản lý – là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, máy hút bụi…
Nhóm 5: Vườn cây lâu năm (cà phê, chè, cây ăn quả…), súc vật làm việc (trâu, bò…) hoặc súc vật cho sản phẩm (bò sữa…).
Nhóm 6: Các tài sản cố định khác – là toàn bộ các tài sản chưa liệt kê vào các loại nêu trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật…
b. Tài sản cố định vô hình
Là những tài sản cố định không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định vô hình chỉ được thừa nhận khi xác định được giá trị của nó, thể hiện một lượng giá trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông thường, tài sản cố định vô hình thường bao gồm các loại sau: quyền sử dụng đất có thời hạn, nhãn hiệu hàng hóa, quyền phát hình, phần mềm máy vi tính, bản quyền, bằng phát minh sáng chế…
Phương pháp phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu đầu tư vào tài sản cố định theo hình thái biểu hiện, là căn cứ để quyết định đầu tư dài hạn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp và có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố định.
3.1.2.2. Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng
Dựa theo tiêu thức này, tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm 2 loại:
- Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: là những tài sản cố định dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
- Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là những tài sản cố định không mang tính chất sản xuất do doanh nghiệp quản lý sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp và các hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng.
3.1.2.3. Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định, có thể chia tài sản cố định của doanh nghiệp thành các loại sau:
- Tài sản cố định đang dùng
- Tài sản cố định chưa cần dùng
- Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý
Dựa vào cách phân loại này, người quản lý nắm được tổng quát tình hình sử dụng tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp sử dụng tối đa các tài sản cố định hiện có trong doanh nghiệp, giải phóng nhanh các tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý để thu hồi vốn.
Trên đây là các cách phân loại chủ yếu. Ngoài ra, còn có thể phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu (tài sản cố định tự có và tài sản cố định đi thuê – thuê hoạt động và thuê tài chính)... Mỗi cách phân loại đáp ứng những yêu cầu nhất định của công tác quản lý. Trong thực tế, doanh nghiệp có thể kết hợp nhiều phương pháp phân loại tài sản cố định tùy theo yêu cầu quản lý từng thời kỳ.
3.2. Các nội dung quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp
3.2.1. Quản lý đầu tư tài sản cố định
Việc đầu tư vào tài sản cố định bao gồm các quyết định mua sắm, xây dựng, sửa chữa nâng cấp… tài sản cố định đạt yêu cầu về thời gian hữu ích của chi phí bỏ ra và giá trị của tài sản mua sắm. Khi doanh nghiệp quyết định đầu tư vào tài sản cố định sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh ở hai khía cạnh là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước mắt và lợi ích mà doanh nghiệp thu được trong tương lai. Chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên do chi phí đầu tư phát sinh đồng thời phải phân bổ chi phí khấu hao (tuỳ theo thời gian hữu ích). Còn lợi ích đem lại là việc nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra được sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao trên thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, sản xuất và tiêu thụ chịu sự tác động nghiệt ngã của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp khi tiến hành việc đầu tư tài sản cố định là phải tiến hành tự thẩm định tức là sẽ so sánh giữa chi tiêu và lợi ích, tính toán một số chỉ tiêu ra quyết định đầu tư như: giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)… để lựa chọn phương án tối ưu.
Nhìn chung, đây là nội dung quan trọng trong công tác quản lý sử dụng tài sản cố định vì nó là công tác khởi đầu khi tài sản cố định được sử dụng tại doanh nghiệp.
Những quyết định ban đầu có đúng đắn thì sẽ góp phần bảo toàn vốn cố định. Nếu công tác quản lý này không tốt, không có sự phân tích kỹ lưỡng trong việc lựa chọn phương án đầu tư xây dựng mua sắm sẽ làm cho tài sản cố định không phát huy được tác dụng để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả và như vậy việc thu hồi toàn bộ vốn đầu tư là điều không thể.
3.2.2. Quản lý sử dụng, giữ gìn và sửa chữa tài sản cố định
Trong quá trình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp, các bộ phận chi tiết, các phụ tùng... bị hư hỏng hoặc hao mòn hoặc xảy ra những tình trạng không bình thường như nhờn ốc, vỡ van... Ngoài việc phải giữ gìn, lau dầu, ... doanh nghiệp phải tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa nhằm đảm bảo năng lực sản xuất bình thường của tài sản cố định. Như vậy, việc giữ gìn và sửa chữa tài sản cố định là một biện pháp quan trọng để sử dụng tài sản cố định có hiệu quả.
Giữ gìn và sửa chữa tài sản cố định nhất là sửa chữa tài sản cố định phải được tiến hành có kế hoạch. Việc sửa chữa tài sản cố định nói chung chia ra làm sửa chữa lớn và sửa chữa thường xuyên. Trong khi sửa chữa phải thay đổi phần lớn phụ tùng của tài sản cố định, thay đổi hoặc sửa chữa bộ phận chủ yếu của tài sản cố định như thân máy, giá máy, phụ tùng lớn... Việc sửa chữa như vậy đều thuộc phạm vi của sửa chữa lớn. Sau khi sửa chữa lớn, thiết bị sản xuất có thể khôi phục được mức độ chính xác và công suất, có khi còn có thể nâng cao công suất. Đặc điểm của công tác sửa chữa lớn là có phạm vi rộng, thời gian dài, cần phải có thiết bị kỹ thuật và tổ chức chuyên môn sửa chữa lớn.
Sửa chữa thường xuyên là sửa chữa có tính chất hàng ngày để giữ gìn công suất sử dụng đều đặn của tài sản cố định. Sửa chữa thường xuyên chỉ có thể giữ được trạng thái sử dụng đều đặn của tài sản cố định chứ không thể nâng cao công suất của tài sản cố định lên hơn mức chưa sửa chữa được. Đặc điểm của sửa chữa thường xuyên là có phạm vi nhỏ, thời gian ngắn, chi phí ít, tiến hành thường xuyên và đều đặn.
Thực tiễn cho thấy rằng chế độ bảo dưỡng thiết bị máy móc là có nhiều ưu điểm như khả năng ngăn ngừa trước sự hao mòn quá đáng và tình trạng hư hỏng bất ngờ cũng như chủ động chuẩn bị đầy đủ khiến cho tình hình sản xuất không bị gián đoạn đột ngột. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà mỗi doanh nghiệp thực hiện chế độ sửa chữa với các mức độ khác nhau.
Thông thường khi tiến hành sửa chữa lớn tài sản cố định thường kết hợp với việc hiện đại hoá, với việc cải tạo thiết bị máy móc. Khi việc sửa chữa lớn, kể cả việc hiện đại hoá, cải tạo máy móc, thiết bị hoàn thành thì nguồn vốn sửa chữa lớn tài sản cố định giảm đi, vốn cố định tăng lên vì tài sản cố định được sửa chữa lớn đã khôi phục ở mức nhất định phần giá trị đã hao mòn, nên từ đó tuổi thọ của tài sản cố định được tăng thêm, tức là đã kéo dài thời hạn sử dụng. Đây là một nội dung cần thiết trong quá