Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay - 15


Nguyên, Nhật Chiêu, Nguyễn Đức Nam, Hoàng Ngọc Thư, Nguyễn Huy Thiệp, Hà Khánh Linh, Nguyễn Minh Châu, Vò Thị Hảo,…

Ở những tác phẩm này, chúng ta có thể thấy một đặc điểm: vô thức tập thể đã hoàn toàn "chuyển bản quyền" thành vô thức cá nhân trong sức sáng tạo mạnh mẽ của người nghệ sĩ thời đổi mới. Toàn bộ cấu trúc kì ảo của truyện là một ẩn dụ lớn. Yếu tố kì ảo giúp tác giả biểu đạt biết bao điều của cuộc sống hôm nay. Nói như Đỗ Lai Thuý: Cái biết của con người càng lớn lên bao nhiêu thì cái chưa biết của nó cũng lớn lên bấy nhiêu. Trong cuộc sống hiện đại, khi mà lí trí của con người trở nên rất đỗi sáng suốt và tỉnh táo thì cuộc sống ấy cũng bao hàm biết bao điều bí ẩn cần cắt nghĩa, cần khai phá. Đôi khi không thể dùng thực tại để giải thích thực tại, không thể dùng lí trí tỉnh táo để giải thích mọi điều về cuộc sống. Yếu tố kì ảo đã nhận nhiệm vụ đó và có thể nói đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ đó trong truyện ngắn.

2.2.3.2.1. Những huyền thoại mới trước hết được tác giả sáng tạo nên nhằm thể hiện cái nhìn khắc khoải, cay đắng về hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Người lính không còn trở về trong hào quang chiến thắng. Một số truyện ngắn viết về motip người lính trở về, nhưng đó là sự trở về của những linh hồn, những oan hồn còn nhiều lưu luyến với trần gian. Người ta bắt gặp tình huống kích thích thần kinh đó trong Nguyệt kiếp - Vò Thị Hảo, Bến trần gian - Lưu Sơn Minh, Tiếng vạc sành - Phạm Trung Khâu,… Ở Bến trần gian, Lưu Sơn Minh đã tạo nên chi tiết cổ tích thần kì: ông già râu tóc bạc phơ và chiếc lá nhiệm mầu. Với Nguyệt kiếp của Vò Thị Hảo là hình ảnh đoàn người lũ lượt đi với tiếng hú khóc rùng rợn trong đặc khu Thủy Yến. Cứ chạng vạng, khi bóng tối đổ xuống rừng U Minh, người ta lại nghe từng tràng tiếng hú rợn người dội lên từ rừng sâu. Đó chính là linh hồn của những người lính đã chết bao nhiêu năm lê lết trong cuộc diễu hành kì lạ đi đòi lại đôi tai, gan bàn tay bàn chân của mình đã bị xẻo trong những ngày chiến tranh. Yếu tố kì ảo đã thức tỉnh cái nhìn bi đát về hậu quả khắc nghiệt của chiến tranh. Chiến tranh không đơn giản như nhiều người vẫn tưởng, vẫn nghe. Rùng rợn, đau đớn,


nặng nề nhưng đó mới chính là bản chất của cuộc chiến nặng nề mà cả dân tộc đã đi qua.

Tiếng vạc sành của Pham Trung Khâu cũng sử dụng motip người lính trở về sau chiến tranh nhưng còn bi đát, trầm luân hơn nhiều. Với khuôn mặt đã bị chiến tranh hủy hoại làm cho hết sức dị dạng, người chồng đã không dám trở về gặp lại người thân mà đêm đêm tha thiết nhìn vào gia đình trong tiếng "tọc, tọc, tọc" gọi vợ hiền. Anh đã chết và hóa thành con vạc sành, khoác đôi cánh màu xanh của người lính. Tiếng kêu đau thương ấy cứ đêm đến lại cất lên xé lòng để gọi vợ con: "Tiếng kêu xé lòng của hạnh phúc bị số phận đắng cay tước đoạt". Một sự tích mới của thời hiện đại, sự tích về chiến tranh, sự tích ấy còn đắng cay hơn cả sự tích về tiếng gọi bạn thảm thiết của con chim Cuốc trong huyền tích xưa. Yếu tố kì ảo trở thành trợ lực giúp nhà văn nhận diện sâu sắc hơn, thậm chí nhức nhối hơn về hiện thực cuộc sống.

2.2.3.2.2. Nhiều truyện ngắn đã sử dụng yếu tố kì ảo để bộc lộ những phương diện sâu kín nhất; những khát khao đời nhất, người nhất của con người hiện đại. Người trong gương của Hoàng Ngọc Thư nói được nhiều điều hơn hẳn một truyện ngắn thông thường. Cuộc tình giữa người trong gương - một chàng trai đã chết vì căn bệnh oan nghiệt khi mới ở tuổi mười tám đầy sinh lực - với nhân vật nàng - một người phụ nữ đã có gia đình; đã tạo nên tâm điểm tư tưởng của truyện ngắn. Những mối tình liêu trai trở thành một ẩn ngữ để các cây bút đương đại dò sâu vào phương diện này. Đó là những mối tình liêu trai trong Chợ rằm ở gốc cây cổ thụ - Y Ban, Bến trần gian - Lưu Sơn Minh, Tiếng vạc sành - Phạm Trung Khâu, hầu hết các truyện trong tập Gió lạ của Phan Đức Nam thường đi về với nguồn cảm hứng này,…

Trong Chợ rằm ở gốc cây cổ thụ, Y Ban kể về một phiên chợ kì lạ. Phiên chợ ấy một tháng họp một lần vào đêm rằm. Đó là phiên chợ mà những người thân ở trần gian có thể gặp được những người đã chết. Ở đây, yếu tố kì ảo lại giúp các nhà văn diễn tả được những thế giới thầm kín bên trong con người, kể cả những cam chịu thầm lặng nhất. Đây cũng là hướng thể nghiệm của Đỗ Hoàng Diệu, tuy


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

chưa thực sự thành công nhưng được ghi nhận như một nỗ lực đổi mới táo bạo. Gió lạ của Pham Đức Nam được ghi chú là Tập truyện ngắn liêu trai huyền ảo hiện đại. Quả thực, không khí liêu trai như bao trùm âm hưởng của tập truyện. Đó là những mối tình liêu trai trong Hồn lan, Vầng trăng về núi, Tình trăng, Chuyện tình ở biển,… Chất liêu trai đã tạo nên một thế giới mà ở đó những hồn ma, những linh hồn oan khuất đi lại, nói cười, giao du với con người dương thế: Vật với ma, Gió lạ, Rắn trắng - Phan Đức Nam; Nghĩa địa xóm chùa - Đoàn Lê, Người trong gương - Hoàng Ngọc Thư, Vòng tròn im lặng - Dạ Ngân,…

2.2.3.2.3. Trong nỗ lực sáng tạo mạnh mẽ của văn học giai đoạn này, chúng ta còn bắt gặp một số motip quen thuộc nhằm bộc lộ những ý chỉ phong phú, độc đáo của tác giả: motip hóa thân, motip tội ác và trừng phạt,… Đó là những truyện ngắn đậm chất kinh dị gợi nhớ đến Kafka, Macquez và nhiều nhà hiện thực kì ảo phương Tây khác.

Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay - 15

Motip hóa thân là "triệu chứng" thường thấy trong sáng tác của: Nguyễn Vĩnh Nguyên, Hoàng Ngọc Thư, Nhật Chiêu, Phan Đức Nam, Nguyễn Minh Châu, Hà Khánh Linh, Ngô Tự Lập,… Trong truyện ngắn Đổi mặt của Nguyễn Vĩnh Nguyên, sự hóa thân người/chó, chó/người đã tạo nên những ám gợi lớn về kiếp người. Với Chuyến bộ hành của Ngô Tự Lập ta lại bắt gặp một motip hóa thân khác, sự hóa thân người/mèo. Người bố hóa thân thành con mèo đầy lông lá mang hàm nghĩa như sự thu nhỏ người lại trước sự quyến rũ của kim tiền, và điều đó đồng nghĩa với cái chết. Chuyến bộ hành rất ngắn nhưng con người không bao giờ có thể đến được đích khi cái đích ấy rất xa lạ với loài người. Trong Chim hạc đen của Hà Khánh Linh, vị Samon và công chúa Nguyên Nhung hóa thành những con chim hạc. Sự hóa thân ấy vừa nhằm tách ra khỏi thế giới ô trọc trong chốn triều thần của vua cha; vừa nhằm nhìn kĩ, nhìn rò hơn về thế giới ấy. Ở Rắn trắng của Phan Đức Nam là câu chuyện người hóa rắn, Những con rối của Hoàng Ngọc Thư lại là người hóa rối, rối hóa người để cuối cùng con người tan biến trong sự hỗn độn, mờ mịt đến nỗi không còn phân biệt được đâu là rối, đâu là người. Đặc biệt, trong Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, sự hóa thân người/bò đã tạo nên những


thức nhận sâu xa về cuộc sống. Trong giấc mơ khủng khiếp, lão Khúng hóa thân thành con bò khoang đen. Sự hóa thân bò/người đem lại những suy tư sâu thẳm về thân phận con người, thân phận người nông dân. Đỗ Đức Hiểu coi thành công của Phiên chợ Giát như kết quả sự kế thừa từ nhiều huyền thoại lớn: “Phiên chợ Giát là một bức tranh lạ lùng, gợi nhớ đến Biến dạng của Kafka, Ngày cuối cùng của một người bị kết án của Huygô, Người ở tầng hầm của Đốxtôiepxki, Ông già và biển cả của Hêminhway…” [281]. Quả thật, bên cạnh sự hóa thân người/ngựa trong Nhân mã của Jorn Updike, sự hóa thân người/gián trong Biến dạng của Kafka,… motip hóa trân trong truyện ngắn kì ảo Việt Nam đã góp thêm một tiểu lưu nữa trong dòng chảy văn học kì ảo nhân loại.

Cùng với motip hóa thân là motip tội ác và trừng phạt, một motip có sức cảnh tỉnh lớn đối với con người hiện đại. Motip đó góp phần tạo nên sự cân bằng, sự hài hòa cho cuộc sống thời đổi mới. Trong Tiếng kêu của ngôi nhà thủng mái (Nguyễn Tham Thiện Kế), không khí bí hiểm, ma quái của ngôi nhà cổ là mạch chính của câu chuyện. Tiếng kêu cứu vẳng lên từ ngôi Biệt dinh, hay tiếng kêu của ngôi nhà thủng mái gợi lên một thông điệp: chẳng bao giờ có thể sống yên ổn, an bình trong sự thừa hưởng một cách bỗng dưng từ thành quả lẽ ra phải thuộc về người khác. Ở Gió lạ - Nguyễn Đức Nam, án trừng phạt không chỉ được thực hiện trong cuộc đời mà sự nghiêm khắc của tạo hóa còn theo con người đến kiếp sau. Sự hóa kiếp thành rắn trong Rắn trắng của Phan Đức Nam, sự đổi mặt để nếm trải kiếp chó trong Đổi mặt của Nguyễn Vĩnh Nguyên, hay vì tham lam nên cuối cùng phải thu nhỏ người thành mèo trong Chuyến bộ hành của Ngô Tự Lập,… cũng nằm trong motip ấy. Ở đây, nói như Đỗ Lai Thúy, cái kinh dị một mặt giúp ta đổi mới cái nhìn để không "nhẵn mặt" với đời sống, mặt khác là cầu nối đưa ta vào thế giới của cái chưa biết, cái siêu nhiên.

2.2.3.2.4. Những huyền thoại mới còn được các tác giả sáng tạo nên nhằm miêu tả muôn mặt của cuộc sống. Đây là xu hướng khá phổ biến trong truyện ngắn các cây bút thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba của hành trình đổi mới văn học: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Phan Đức Nam, Hoàng Ngọc Thư, Nhật Chiêu,…


Một đặc điểm rất quan trọng của những truyện ngắn này là họ đã hết sức tự do trong việc sáng tạo nên các biểu tượng kì ảo. Phong cách tư duy này được thể hiện qua nhiều tác phẩm, các biểu tượng đa nghĩa trở thành những dụ ngôn hiện đại đòi hỏi phải có sự giải mã mới hiểu hết được.

Phạm Thị Hoài "tạo ra một kiểu "tân huyền thoại" hoặc "phiếm huyền thoại" không phải bao giờ cũng dễ hiểu". Từ dạng thức truyện ngắn đậm đặc chất huyền thoại này, Nguyễn Thị Bình có sự liên hệ: "Đọc Phạm Thị Hoài, người ta hay liên tưởng đến một số trào lưu triết - mĩ phương Tây hiện đại" [215, tr.256]. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Thư tiềm tàng những dạng kì ảo như thế: Chiếc áo, Người có phép lạ, Người đi tìm bóng tối, Những con rối, Những giấc mơ của một người sợ bóng râm,… Nguyễn Vĩnh Nguyên nói chuyện với nàng Mona Lisa trong đoản thiên Mona Lisa, tạo nên chất phi lí trong Nói đi, thực ra anh là ai?, Mùa ánh sáng. Với sợi mi hạc gắn lên mắt, công chúa Nguyên Nhung đã nhìn suốt cả triều thần của vua cha: một thế giới của beo, gấu, khỉ, lợn, rắn hổ mang,… hiện lên nguyên chân tướng. Thế nhưng vua cha đã không vui mừng, trái lại, đã phản ứng dữ dội "Như thể chiếc áo giáp ngụy bị một mũi tên đột ngột xuyên thủng" (Chim hạc đen - Hà Khánh Linh). Ở Chiếc áo là biểu tượng chiếc áo có phép lạ, vừa đem lại điều may mắn nhưng ngay sau đó lại đi liền với một tai họa, một biểu hiện theo kiểu âm dương chuyển hóa. Ở Người có phép lạ là một cô gái có sự mẫn cảm và khả năng kết nối cảm xúc kì lạ với những người xung quanh. Truyện kết thúc bằng chất kinh dị phương Tây: một ngày kia, cô bé đi qua đường đúng trên vạch kẻ của người bộ hành, một chiếc xe hơi kiểu thể thao lao nhanh đâm chết cô bé, nghiến lên thân xác nàng rồi bỏ chạy. Mọi người đổ xô đến và chứng kiến một cảnh tượng kì dị: "Xác của nàng tan ra thành cát bụi hòa vào lòng đường. Một cơn gió nhẹ thoảng qua cuốn đi nốt những hạt còn lại". Cô bé có trái tim thiên thần ấy không thể sống được với trần gian chăng, giác quan tinh nhạy như một thứ cảm ứng ấy không thể chịu nổi những tổn thương muôn trùng của cuộc sống hiện đại chăng?

Có thể nói, truyện ngắn huyền thoại phát triển đến đỉnh cao, trở thành nét phong cách độc đáo nhất ở hiện tượng Nhật Chiêu. Với lợi thế của một tập truyện ra


đời cuối thập niên thứ nhất của thế kỉ XXI, tập truyện ngắn Mưa mặt nạ của Nhật Chiêu là kết quả của sự tương tác từ nhiều hướng, nhiều chiều. Nói cách khác, yếu tố huyền thoại đạt được sự kết tinh đậm nhất trong sáng tác của Nhật Chiêu. Ở đó, vừa có những truyện ngắn huyền thoại lấy cảm hứng từ cổ tích dân gian: Con quạ, Thác khói,…; nhưng ở đó lại có rất nhiều huyền thoại mới mang đậm chất huyền ảo của Kafka và yếu tố hậu hiện đại phương Tây: Mưa mặt nạ, Cánh bèo, Chim đã gọi tôi, Đom đóm, Mưa, Tờ giấy trắng, Salon của chúa trời, Tiếng kêu,… Thành quả ấy đến từ một quan niệm viết mà cũng có thể nói là tuyên ngôn sáng tác của Nhật Chiêu: nghệ thuật là ảo thực tương duyên. Với phương châm sáng tác đó, truyện ngắn Nhật Chiêu đặc biệt phóng khoáng về quy phạm thể loại: "Không có một biên độ, một biên thùy nào cho chính nó". Hiệu ứng của tất cả những điều đó là: "truyện ngắn Nhật Chiêu đi lại vô ngại giữa ảo và thực, giữa cổ và kim, giữa sống và chết, giữa thần và thú, giữa bóng tối và ánh sáng…" [52, tr.173].

Truyện ngắn Nhật Chiêu là nơi tập hợp của nhiều sáng tạo biểu tượng kì ảo. Có biểu tượng đom đóm trong truyện ngắn Đom đóm, có biểu tượng chiếc lồng trống rỗng đi tìm nhà thơ trong Chim đã gọi tôi, biểu tượng nước trong Hương thơm của nước, biểu tượng mặt nạ trong Mưa mặt nạ. Đặc biệt, như sự biểu hiện của tính liên văn bản, các biểu tượng huyền thoại tái xuất hiện qua nhiều truyện đã gợi lên những thông điệp ngôn ngữ mới của Nhật Chiêu: đom đóm, con quạ, tờ giấy trắng, nước, mặt nạ,… Nhiều truyện ngắn nhỏ gọn như một bài thơ nhưng lại hết sức lung linh, đa nghĩa. Những bài thơ đầy ngụ ý chảy suốt tập truyện làm truyện ngắn Nhật Chiêu giống truyện truyền kì nhưng phẩm chất tư duy thì đầy yếu tố hiện thực huyền ảo dạng Kafka. Có thể coi đó là một giá trị, một phẩm chất; giá trị - phẩm chất của sự kết hợp Đông - Tây, của tự tương tác từ cả hai chiều: nội lực và ngoại lực. Cánh bèo là biểu tượng người trong người. Một điều rất thú vị, trong tác phẩm, nhân vật dẫn rất nhiều câu nói của các nhà văn, nhà thơ, trong đó có câu nói của nhà huyền ảo Banzac: "Tôi là bộ phận của cái độc lập có tên sự sống". Chim đã gọi tôi gợi nhắc đến Kafka ngay từ lời mở đầu tác phẩm: "Chiếc lồng ra đi tìm tiếm một con chim. Sau khi viết ra câu đó, Franz Kafka gục xuống bàn, rơi vào một


giấc ngủ sâu". Kafka ngủ sâu và Nhật Chiêu đã tiếp nối câu chuyện ấy, câu chuyện đầy chất phi lí với điểm nhìn là chiếc lồng: chiếc lồng trống rỗng, chiếc lồng cô đơn, chiếc lòng hư ảo. Chiếc lồng đi tìm nhà thơ. Tác phẩm kết thúc khi tôi thức dậy: "Tôi vừa mơ trên những trang sách của Kafka". Đó còn là cái phi lí với những biểu tượng kì ảo kích thích trí tưởng tượng người đọc trong Chợ đằng đông, Mưa, Salon của chúa trời,…

Trong những truyện ngắn ấy, thành công nhất, tạo những hiệu ứng thẩm mĩ mạnh nhất, đa chiều nhất là Mưa mặt nạ. Biểu tượng mặt nạ là một tín hiệu siêu ngôn ngữ có sức vẫy gọi sự giải mã của người đọc. Từng câu, từng đoạn, từng hình ảnh của truyện ngắn đều hàm chứa nhiều ẩn ý. Có một ngôi làng chỉ có nỗi buồn và sự trầm lặng, ngôi làng không biết cười: làng của Man. Thế rồi, một hôm ngôi làng ấy đón một cơn mưa kì lạ, mưa mặt nạ. Bao nhiêu mặt nạ tựa như da người, mà có thể chính là da người rơi xuống không gian ngôi làng buồn bã ấy. Có vô số mặt nạ với đầy đủ những màu sắc, dạng nét: mặt nạ anh hùng, mặt nạ yêu ma, mặt nạ giai nhân, mặt nạ ác bá, mặt nạ đạo tặc, mặt nạ của hồ mị, mặt nạ của hoa yêu, có mặt nạ của trinh tiết, mặt nạ của ái ân; mặt nạ cười, mặt nạ khóc và có cả những mặt nạ nửa này nửa nọ,… Cơn mưa mặt nạ ấy đã biến cải làng Man. Chính Hồ, cô gái mười sáu tuổi xinh đẹp - người yêu của Man, cũng nhặt được một chiếc mặt nạ để Man không còn nhận ra: mặt nạ là Hồ hay Hồ là mặt nạ. Truyện kết thúc bằng một đêm mất ngủ của tôi với tiếng kêu gào cuồng dại của Hồ, tác giả đặt câu hỏi: Đó là tiếng kêu của ái ân hay một điều gì khác? rồi tự trả lời: KHÔNG BIẾT. Biểu tượng mặt nạ, cơn mưa mặt nạ quyện với những câu thơ đầy hàm nghĩa như một song trùng tuyệt diệu đã tạo nên những lớp ý nghĩa bất tận mà cắt nghĩa theo hướng nào có lẽ thuộc về người đọc.

Như vậy, có thể nói, huyền thoại là yếu tố thể loại mới của truyện ngắn sau đổi mới xét về cả sự phong phú và độ kết tinh. Huyền thoại có mặt ở nhiều tác giả, tác phẩm; huyền thoại trở thành một dòng chảy trong truyện ngắn đương đại Việt Nam. Huyền thoại đến với truyện ngắn cũng hết sức đa dạng, nhiều chiều. Có những huyền thoại mới, là kết quả của sự thâm nhập, sự tiếp thu dòng truyện ngắn


huyền ảo phương Tây. Trong sự phát triển của dịch thuật, của sự giao lưu Đông - Tây, nhiều cây bút truyện ngắn tìm đến với những thành tựu của thể loại này; như trường hợp Nguyễn Vĩnh Nguyên, Hoàng Ngọc Thư, đặc biệt là Nhật Chiêu. Nhưng không phải là tất cả. Từ diễn trình tương tác đa dạng ở trên, chúng tôi cho rằng: có con đường tương tác giao lưu nhưng cũng có con đường tương tác từ nội lực truyền thống văn học dân tộc, là sự gặp gỡ thú vị trong sự vận động và phát triển có tính quy luật của đời sống thể loại. Truyện ngắn Nhật Chiêu có sự tổng hợp của những con đường tương tác trên, đặc biệt có sự ảnh hưởng của yếu tố kì ảo phương Tây khá đậm nét. Thế nhưng, nói về văn xuôi: không phải nhà văn Việt Nam nào cũng là Nhật Chiêu, cũng như nói về thơ: không phải nhà thơ Việt Nam nào cũng là Bùi Giáng. Ở Việt Nam, nhiều nhà văn chưa từng biết đến Kafka, Macquez, J. Joyce,… nhưng chắc chắn kho tàng huyền thoại đã nuôi họ lớn dần từ trong sâu thẳm của vô thức tuổi thơ. Từ những năm 90 của thế kỉ XX, có sự chững lại, lắng xuống của văn xuôi; nhưng người ta hi vọng nhiều đến một tia sáng lóe lên đầy lung linh, huyền ảo: đó chính là tia sáng từ xu hướng văn xuôi huyền thoại.

2.3. TIỂU THUYẾT TRONG TRUYỆN NGẮN‌

Trong logic của các thể loại văn học "thời tiểu thuyết"; việc "lây nhiễm" chất tiểu thuyết, đặc trưng tiểu thuyết gần như là điều đương nhiên đối với truyện ngắn. Đương nhiên vì, nói như Thierri Ozwald, truyện ngắn và tiểu thuyết thuộc chung "một không gian văn chương", đương nhiên còn vì đặc tính bản chất của tiểu thuyết: "tiểu thuyết hóa" tất cả các thể loại văn chương khác. Thế nhưng, điều quan trọng ở đây là: trong sự vận động đổi mới mạnh mẽ của văn học hiện đại; truyện ngắn đã khôn ngoan thu nhận được gì, truyện ngắn đã "học tập" được điều gì từ người bạn, người láng giềng đầy gần gũi ấy (đường biên tương đối giữa hai thể loại này chúng tôi đã giới thuyết ở chương 1).

Baranôp, nhà nghiên cứu người Nga từng có ý kiến rất hay rằng: “Khi hai người thông minh nói chuyện với nhau, mỗi người nhờ người kia mà trở nên giàu thêm nhưng cả hai không bao giờ tự xoá khuôn mặt riêng của mình. Truyện ngắn hiện đại cũng vậy. Nó đang tích cực cộng tác với những người bạn láng giềng,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/07/2022