ngoài.
a. Thời điểm ra đời
- Trong các nước nêu trên, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên ban hành Luật Nuôi con nuôi (năm 1991) qui định cả về con nuôi trong nước và con nuôi nước ngoài. Điều này thể hiện Trung Quốc đã sớm chú trọng đến vấn đề con nuôi nước ngoài, đảm bảo tạo cơ hội cho trẻ bị bỏ rơi, mồ côi có nhiều cơ hội được chăm sóc trong môi trường gia đình.
- Ấn Độ cũng là nước sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế, chỉ sau Trung Quốc 2 năm (năm 1995). Dựa trên Đạo luật nuôi con nuôi và cấp dưỡng năm 1956 của người Hin Du, Ấn Độ đã ban hành Bản hướng dẫn thí điểm các nguyên tắc nuôi con nuôi nước ngoài. Đến năm 2006, Ấn Độ đã sửa đổi Bản hướng dẫn này thành bản hướng dẫn chính thức. Bản hướng dẫn ra đời đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quan hệ con nuôi nước ngoài giữa Ấn Độ và các nước. Cũng như Trung Quốc, Ấn Độ đã tạo được nhiều cơ hội cho trẻ Ấn Độ được chăm sóc trong môi trường gia đình người nước ngoài, giảm gánh nặng cho Chính phủ.
- Tiếp theo là các nước Guatemala, Nepan, Việt Nam lần lượt ban hành Luật con Nuôi có yếu tố nước ngoài vào các năm 2007, 2008 và 2010. Điều này thể hiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của ba nước này chưa bắt kịp với xu thế chung của thế giới, muộn hơn Trung Quốc và Ấn Độ từ 10-20 năm, điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết nhu cầu xin con nuôi của người nước ngoài và giảm cơ hội cho các trẻ cần tìm mái ấm thay thế . Mặc dù nhu cầu người nước ngoài xin con nuôi ở Guatemala, Nepan và Việt Nam là rất lớn. Điều này có thể hiểu bởi lịch sử, điều kiện xã hội, kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy Luật Nuôi con nuôi ra đời muộn nhưng đã thể hiện được một chính sách nhân đạo của của Nhà nước trong thời kỳ hội nhập ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia với nhau. Tạo khung pháp lý hoàn chỉnh cho con nuôi quốc tế tại các nước này.
Như vây, Trung Quốc và Ấn Độ đã ban hành Luật Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước chúng ta gần 20 năm. Chứng tỏ các quốc gia này đã có sự phát triển, đi trước một bước trong lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài so với Việt Nam.
Guatemala và Nepan cũng đã ban hành Luật Nuôi con nuôi lần lượt vào năm 2007 và 2008, rõ ràng đây cũng là các quốc gia tuy ban hành luật muộn hơn Ấn Độ và Trung Quốc nhưng họ vẫn hoàn thiện trước chúng ta về hệ thống pháp luật nuôi con nuôi đặc biệt là con nuôi nước ngoài.
Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng Việt Nam chưa bắt nhịp kịp với các nước khác trong lĩnh vực con nuôi nước ngoài trong thời gian qua, một phần từ chính tình hình xã hội, nhận thức của cộng đồng và quan trọng hơn hết đó là luật của Việt Nam ra đời khá muộn mằn. Dẫn đến các quan hệ nuôi con nuôi nước ngoài chậm được điểu chỉnh. Luật Nuôi con nuôi ra đời năm 2010, sau hai năm thực hiện đã đang dần đi vào cuộc sống. Luật Nuôi con nuôi góp phần từng bước hoạch định lại chính sách về con nuôi nước ngoài cũng như đưa các quan hệ này thống nhất về một mối. Nhằm từng bước minh bạch và quản lý hiệu quả về nuôi con nuôi nước ngoài ở Việt Nam.
Tuy nhiên, đề cập về khía cạnh pháp luật rõ ràng các nước mà luật nuôi con nuôi ra đời hoặc sửa đổi càng muộn thì yếu tố tiến bộ càng nhiều do học hỏi và tiếp thu cũng như chắt lọc được các nội dung của luật hiện đại nhiều hơn (điển hình là Việt Nam, Ấn Độ), nhất là khi Công ước Lahay 1993 ra đời đã làm nền tảng cho việc xây dựng Luật Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của mình.
b. Phạm vi điều chỉnh
Trong các nước trên Việt Nam, Trung Quốc, Guatemala xây dựng Luật Nuôi con nuôi áp dụng cho cả con nuôi trong nước và con nuôi quốc tế. Trong đó có chia ra các phần áp dụng cho con nuôi trong nước và con nuôi quốc tế.
Còn Ấn Độ và Nepan xây dựng cho mình một luật riêng về con nuôi quốc tế.
Mỗi quốc gia chọn cho mình một mô hình luật phù hợp với điều kiện thực tế của nước mình. Điều quan trong nhất tạo ra khung pháp lý điều chỉnh lĩnh vực con nuôi quốc tế một cách hoàn chỉnh, đảm bảo đầy đủ các căn cứ pháp lý để thực hiện qui trình cho nhận con nuôi quốc tế.
Xét một cách tổng thể thì Luật Nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam, Ấn Độ và Guatemala có bố cục rõ ràng hơn cả so với Luật Nuôi con nuôi quốc tế của Trung Quốc và Nepan. Trong đó luật của Ấn Độ thực sự đem lại cho người đọc nhiều khái niệm mới mẻ nhưng rất hiện đại và tiến bộ, các định nghĩa rõ ràng, các cơ quan tổ chức con nuôi được qui định cụ thể. Bộ hướng dẫn nuôi con nuôi quốc tế của Ấn Độ đáng để chúng ta nghiên cứu và học hỏi, trong một chừng mực nào đó chúng ta cũng có thể xem xét tính hợp lý đối với hoàn cảnh xã hội của Việt Nam so với Ấn Độ.
c. Đối tượng áp dụng
Luật con nuôi nói chung và có yếu tố nước ngoài nói riêng của năm nước trên áp dụng với công dân nước gốc và công dân nước nhận con nuôi. Duy có Ấn Độ chỉ áp dụng đối với người Hin Đu (tức là chỉ trẻ em người Hin Du mới được cho làm con nuôi nói chung và làm con nuôi nước ngoài nói riêng), sự khác biệt này của Ấn Độ thể hiện ở quan điểm tôn giáo Ấn Độ trong việc tôn trọng tập quán của mình.
2.2.3. So sánh về nội dung
a. Về nguyên tắc cho con nuôi
Trung Quốc | Ấn Độ | Guatemala | Nepan | |
Ưu tiên làm con nuôi tại nước gốc. Trường hợp không tìm được gia đình tại nước gốc mới tìm gia đình nước ngoài thay thế. Ưu tiên trẻ em có nhu cầu đặc biệt. | Không quy định | Ưu tiên làm con nuôi tại nước gốc. Trường hợp không tìm được gia đình tại nước gốc mới tìm gia đình nước ngoài thay thế. Ưu tiên trẻ em có nhu cầu đặc biệt. | Ưu tiên làm con nuôi tại nước gốc. Trường hợp không tìm được gia đình tại nước gốc mới tìm gia đình nước ngoài thay thế. | Không quy định |
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Của Một Số Nước Trên Thế Giới, So Sánh Với Pháp Luật Việt Nam
- Pháp Luật Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Của Ấn Độ
- Số Lượng Trẻ Em Guatemala Được Người Nước Ngoài Nhận Nuôi Từ Năm 1997 Đến Tháng 7/2005 [21]
- Xem Xét Số Liệu Trẻ Em Được Cho Làm Con Nuôi Quốc Tế Của Các Nước
- Tận Dụng Các Nguồn Lực Trong Nước Cũng Như Của Các Tổ Chức Quốc Tế Để Thực Hiện Mục Đích Nhân Đạo Cho Trẻ Em
- So sánh pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên thế giới bài học kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Trong năm quốc gia trên có ba quốc gia là Việt Nam, Ấn Độ, Guatemala đều có chung nguyên tắc chỉ cho trẻ làm con nuôi nước ngoài sau khi đã tìm kiếm gia đình tại nước gốc cho trẻ không thành công. Riêng Trung Quốc và Nepan không qui định nguyên tắc này.
Thực tế nguyên tắc cho con nuôi người nước ngoài phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh xã hội của mỗi nước. Mỗi quốc gia đều xem xét mối tương quan chung giữa con nuôi trong nước và
con nuôi quốc tế. Lựa chọn nguyên tắc cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài đều tính đến lợi ích tốt nhất cho trẻ.
Nhóm các quốc gia Việt Nam, Ấn Độ, Guatemala đều dựa trên cơ sở rằng nước gốc vẫn là lựa chọn tối ưu cho trẻ. Tại nước gốc, trẻ không bị thay đổi về mặt văn hóa, ngôn ngữ và dễ hòa nhập. Việc bảo vệ một đứa trẻ tại nước gốc rõ ràng sẽ dễ dàng hơn so với trẻ đang sống tại nước nhận. Chỉ khi không thể tìm được gia đình thay thế cho trẻ tại nước gốc mới chuyển trẻ sang làm con nuôi quốc tế.
Trung Quốc thì có quan điểm rằng, việc tìm mái ấm cho trẻ em không nên phân biệt tại nước gốc hay nước ngoài. Việc phân biệt sẽ chỉ làm giảm cơ hội cho trẻ được sống trong môi trường gia đình. Việc càng tìm được nhiều mái ấm cho trẻ chính là mục tiêu của chương trình cho con nuôi quốc tế của Trung Quốc.
Tại phần mở đầu của Công ước Lahay 1993 có qui định: Nhắc lại rằng, mỗi quốc gia cần phải ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc trong gia đình gốc của mình và Công nhận rằng, vấn đề con nuôi nước ngoài có thể có lợi thế là đem lại một gia đình lâu dài cho những trẻ em không tìm được một gia đình thích hợp tại quốc gia gốc của mình.
Như vậy các quốc gia Việt Nam, Ấn Độ, Guatemala cùng đưa ra một nguyên tắc ưu tiên tìm gia đình tại nước gốc cho trẻ, nội dung này đã được qui định trong Công ước Lahay 1993 và đã nội luật hóa nguyên tắc này trong Luật Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của mình cũng nhằm mục đích tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ tại tại nước gốc.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đưa ra một nguyên tắc khác, việc tìm gia đình cho trẻ không phân biệt tại nước gốc hay nước ngoài mà tìm cơ hội tốt nhất cho trẻ có mái ấm gia đình, nguyên tắc này cũng được qui định trong Công ước Lahay 1993.
Sự khác biệt giữa hai nhóm quốc gia về nguyên tắc cho con nuôi nước ngoài thể hiện hai xu hướng quan điểm, nhưng cuối cùng mỗi nguyên tắc đều mang trong mình sứ mệnh là tìm được mái ấm tốt nhất cho trẻ theo quan niệm của mỗi quốc gia.
b. Nguyên tắc cho nhận con nuôi đích danh của người nước ngoài
Trung Quốc | Ấn Độ | Guatemala | Nepan | |
Qui định trong các trường hợp sau đây: | Qui định: | Không quy định |
Một người có thể nhận trẻ em làm con nuôi có cùng quan hệ huyết thống trong vòng 03 đời, và không .hạn chế tuổi của con nuôi dưới 14 tuổi. Trẻ em có nhu cầu đặc biệt (trẻ khuyết tật) |
a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
Nguyên tắc này chỉ có Việt Nam và Trung Quốc áp dụng, các quốc gia còn lại là Ấn Độ, Guatemala và Nepal không áp dụng. Việc cho phép nhận con nuôi đích danh dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện cho trẻ nhanh chóng tìm được gia đình thay thế tốt nhất cho mình. Việc áp dụng nguyên tắc này đã giảm thiểu một số thủ tục pháp lý, rút ngắn qui trình cho nhận con nuôi. Nguyên tắc này là cần thiết đối với việc nuôi con nuôi quốc tế.
Tuy nhiên đối tượng được cho làm con nuôi đích danh giữa Việt Nam và Trung Quốc có qui định khác nhau. Trung Quốc chỉ qui định với nguyên tắc chung là: “có quan hệ huyết thống trong vòng 03 đời và trẻ có nhu cầu đặc biệt” còn Việt Nam qui định một cách cụ thể, rõ ràng (chi tiết tại bảng trên).
Rõ ràng đây là một nguyên tắc tiến bộ mà Trung Quốc và Việt Nam đều áp dụng.
c. Điều kiện và tình trạng của trẻ em làm con nuôi người nước ngoài
Việt Nam | Trung Quốc | Ấn Độ | Guatemala | Nepan | |
Độ tuổi | 1.Trẻ em dưới 16 tuổi 2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các | Trẻ em dưới 14 tuổi (ngoại trừ trường hợp có quan hệ huyết thống trong | Trẻ em từ 12 tuổi trở xuống. | Trẻ từ 4 tháng đến 14 tuổi. | Trẻ dưới 16 tuổi. |
trường hợp sau đây: a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. | phạm vi 3 đời thì không hạn chế tuổi của con nuôi) | ||||
Tình trạng của trẻ | - Tất cả trẻ em. - Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi. | - Trẻ bị mồ côi -Trẻ sơ sinh hoặc trẻ em bị bỏ rơi mà không xác định hoặc không tìm thấy bố mẹ đẻ. - Bố mẹ đẻ của trẻ em đó không có khả năng nuôi chúng vì những lý do đặc biệt. | -Trẻ mồ côi, bị bỏ rơi và; -Trẻ bị cha mẹ tự nguyện từ bỏ con để cho làm con nuôi. | -Trẻ không có người giúp đỡ, trẻ mồ côi hoặc vị thành niên. -Trẻ em hoặc vị thành niên đã được tuyên bố là quyền của chúng bị xâm hại trong gia đình hoặc có cha mẹ đẻ tự nguyện từ bỏ con để cho làm con nuôi | -Trẻ mồ côi hoặc cha mẹ chết mà không còn họ hàng thân thích. và; -Trẻ được cha mẹ tự nguyện từ bỏ. |
Trường hợp trẻ là anh, chị em, sinh đôi sinh ba | Chỉ qui định trường hợp đã nhận trẻ làm con nuôi, và nhận thêm trẻ là anh chị em ruột của trẻ đó thì được nhận đích danh. | Không qui định. | Anh chị em sinh đôi/ba không thể bị tách rời khi làm con nuôi. | Anh chị em ruột sẽ không bị chia tách khi làm con nuôi . | Không qui định. |
Sự đồng ý của trẻ | Trường hợp đứa trẻ từ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của đứa trẻ. | Trẻ từ 10 tuổi trở lên phải có sự đồng ý bằng văn bản. | Cần phải có sự đồng ý của trẻ em nếu thích hợp. | Không qui định. | Không qui định. |
Các điều kiện khác | Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai | Không qui định | Hai trẻ em không có quan hệ họ | Trường hợp đã nhận một trẻ trai hoặc |
người là vợ chồng | hàng không thể được đề xuất làm con nuôi trong một gia đình nước ngoài tại cùng một thời điểm. | gái người Nepal làm con nuôi thì không ngăn cản việc việc nhận chị gái/ anh trai có cùng huyết thống với đứa trẻ Nepal đã được nhận làm con nuôi. |
Mỗi nước tùy thuộc vào tình hình xã hội, lịch sử, văn hóa cũng như sự phù hợp với các văn bản pháp luật trong nước mà qui định khác nhau về điều kiện của trẻ được cho làm con nuôi nước ngoài.
Về độ tuổi: Thông thường các nước dựa trên qui định về tuổi vị thành niên để làm căn cứ tính tuổi cho trẻ làm con nuôi nói chung và con nuôi nước ngoài nói riêng. Mặc dù các nước trên đều có qui định tuổi vị thành niên là dưới 18 tuổi, nhưng tuổi để cho làm con nuôi nước ngoài rất khác nhau.
Việc qui định tuổi của trẻ được phép làm con nuôi người nước ngoài của các nước đã tính đến lợi ích tốt nhất cho trẻ, Việt Nam và Nepal qui định cùng độ tuổi là dưới 16, Trung Quốc và Guatemala qui định dưới 14 tuổi và Ấn Độ là dưới 12 tuổi. Mỗi quốc gia đều có lý do để ấn định tuổi của trẻ. Tuy nhiên, biên độ tuổi càng cao thì rõ ràng cơ hội trẻ được làm con nuôi càng lớn. Ấn Độ qui định chỉ trẻ dưới 12 tuổi mới đủ điều kiện làm con nuôi, từ trên 12 tuổi trẻ đã hết cơ hội được nhận làm con nuôi. Có lẽ Ấn Độ có một chính sách khác biệt với các nước còn lại. Cùng với Ấn Độ là Trung Quốc và Guatemala cũng chỉ qui định tuổi của trẻ là dưới 14, cũng làm mất cơ hội của các trẻ trong độ tuổi vị thành niên. Như vậy, chỉ với điều kiện về độ tuổi của trẻ để làm con nuôi người nước ngoài cũng đã có sự khác biệt giữa các quốc gia trên.
Về tình trạng của trẻ:
- Các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal đều qui định chỉ có trẻ trong độ tuổi qui định là trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, hoặc bị cha mẹ có hoàn cảnh đặc biệt tự nguyện từ bỏ đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở hoặc người giám hộ, đỡ đầu mới được cho làm con nuôi.
- Riêng Việt Nam và Guatemala không phân biệt mà bất kỳ trẻ nào trong độ tuổi qui định đều đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
Như vậy phạm vi trẻ đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài của Việt Nam, Guatemala rất rộng, vì tất cà trẻ em đều có thể được nhận làm con nuôi. Trong khi đó nhóm 3 nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal qui định chỉ có nhóm trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, bị cha mẹ có hoàn cảnh đặc biệt từ bỏ mới được nhận làm con nuôi người nước ngoài.
Ngoài ra dễ nhận thấy Việt Nam qui định về điều kiện trẻ được làm con nuôi chưa rõ ràng và có nhiều điểm chưa thống nhất. Việt Nam chỉ qui định về độ tuổi và khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi. Đương nhiên, mặc định hiểu thêm rằng tất cả các trẻ đang sống tại các gia đình dưới 16 tuổi đều có quyền được cho làm con nuôi nếu được cha mẹ đẻ đồng ý, qui định như thế không thống nhất với nguyên tắc cho con nuôi là tìm kiếm gia đình tại nước gốc cho trẻ trước khi cho làm con nuôi nước ngoài. Các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Guatemala đều qui định rất rõ ngoài việc đáp ứng về độ tuổi thì trẻ phải rơi vào các trường hợp là trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, hoặc bị cha mẹ có hoàn cảnh đặc biệt tự nguyện từ bỏ đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở hoặc người giám hộ, đỡ đầu mới được cho làm con nuôi. Như vậy, Việt Nam nên qui định rõ hơn về điều kiện liên quan đến tình trạng của trẻ đủ điều kiện cho làm con nuôi nước ngoài và có một điểm mà Việt Nam chưa đề cập đến đó là trường hợp trẻ có cha mẹ có hoàn cảnh đặc biệt (quá nghèo khó, bệnh tật mà không nuôi được trẻ) tự nguyện từ bỏ trẻ được nuôi dưỡng trong các cơ sở mới được cho làm con nuôi.
Sự đồng ý của trẻ được cho làm con nuôi:
Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ qui định việc cần hỏi ý kiến trẻ trước khi được cho làm con nuôi. Trong đó Việt Nam và Trung Quốc qui định rõ về tuổi (lần lượt là 9 và 10 tuổi) và Ấn Độ sẽ hỏi ý kiến trẻ khi thấy cần thiết. Còn Guatemala và Nepal không qui định.
Việc hỏi ý kiến trẻ thể hiện sự tôn trọng quyết định của trẻ, với lứa tuổi 9, 10 trẻ đã nhận thức được một phần hành vi của mình và việc tìm gia đình thay thế cho trẻ đúng nghĩa tìm một mái