chưa phát triển hoàn toàn. Khi gặp những tác nhân này trẻ sẽ có những tổn thương nghiêm trọng hơn ở người đã trưởng thành.
Hiện nay, một số quốc gia ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản quy định việc nhập khẩu các sản phẩm dệt may phải đảm bảo không gây hại với người tiêu dùng. Xu hướng này đang lan rộng ra các quốc gia trên thế giới. Điều này cũng đặt ra yêu cầu với các doanh nghiệp dệt may ngày càng phải chú ý hơn trong các khâu sản xuất, đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm…
Nhà nước nên tổ chức các triển lãm, tuyên truyền về sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng, chú trọng hơn các hoạt động cổ vũ cho xu hướng tiêu dùng an toàn, cho sức khỏe con người nhằm nâng cao nhận thức của các DN trong việc sản xuất sản phẩm an toàn. Nhà nước cũng cần thành lập cơ quan đánh giá độc lập, có đủ năng lực để kiểm tra và công nhận đạt chuẩn về an toàn của sản phẩm, hướng dẫn các DNDM thực hiện các quy định nhằm đáp ứng yêu cầu về an toàn cho người sử dụng của các nước nhập khẩu.
Các doanh nghiệp cần nghiêm túc tuôn thủ các quy định, tuyên truyền cho người người lao động trong DN thấy được tầm quan trọng của việc sản xuất sản phẩm an toàn, có ý thức và trách nhiệm của mình khi tham gia sản xuất sản phẩm.
3.3.2.3. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về môi trường.
Vì người dân các nước phát triển coi môi trường nơi đâu cũng là môi trường chung của mình,vì vậy, nếu sản phẩm gây ô nhiễm môi trường Việt Nam thì cũng gây ô nhiễm cho môi trường chung và do đó không được chấp nhận ở các nước phát triển. Do đó, khi sản xuất hàng dệt may, Việt Nam phải đảm bảo không gây ô nhiễm không chỉ cho môi trường nước xuất khẩu mà còn phải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường tại Việt Nam. Giải pháp để vượt qua rào cản này là:
- Xây dựng cụm công nghiệp ngành dệt may. Chính Phủ có vai trò rất quan trọng trong phát triển cụm CN, thu hút đầu tư vào khâu sản xuất NPL, nhất là khâu dệt, nhuộm và hoàn tất. Vướng mắc lớn nhất của khâu dệt nhuộm là vấn đề xử lý nước thải. Do đó, Chính phủ cần quy hoạch, xây dựng cụm nhà máy dệt nhuộm để
có hệ thống xử lý nước thải tốt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu.
Có thể bạn quan tâm!
- Xu Hướng Áp Dụng Rckt Của Các Thị Trường Xuất Khẩu Chính Đối Với Hàng Dệt May Việt Nam
- Những Định Hướng Vượt Rckt Đối Với Hàng Dmxk Của Việt Nam Thời Gian Tới
- Đối Với Các Quy Định Và Tiêu Chuẩn Về Chất Lượng Sản Phẩm.
- Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu và giải pháp của Việt Nam - 21
- Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu và giải pháp của Việt Nam - 22
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
- Các DNDM cần đẩy mạnh việc quản lý hóa chất, triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn: Trong khi thực hiện các hệ thống quản lý môi trường, cần rà soát các hóa chất thuốc nhuộm, chất trợ đang sử dụng, nguồn gốc, xuất xứ của chúng, các phiếu số liệu an toàn của nhà cung ứng. Đổi mới công nghệ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất thuốc nhuộm thân thiện với môi trường, các công nghệ sử dụng ít nước, ít năng lượng, giảm thiểu chất thải nước, chất thải khí...
3.3.2.4. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội.
Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam là một công việc không thể bỏ qua trên con đường hội nhập, vừa lợi ích cho doanh nghiệp, vừa lợi ích cho xã hội, đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của quốc gia và hỗ trợ thực hiện tốt hơn luật pháp lao động tại Việt Nam, cũng là nội dung quan trọng trong xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại. Để định hướng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, Việt Nam cần tuyên truyền để mọi người hiểu đúng bản chất của vấn đề “trách nhiệm xã hội” và các bộ quy tắc ứng xử, nhất là trong các doanh nghiệp, các nhà quản lý, hoạch định chính sách vĩ mô. Bên cạnh đó, Việt Nam cần có các nghiên cứu cơ bản, khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp đã thực hiện và sẽ thực hiện các bộ quy tắc ứng xử, để phát hiện những thuận lợi cũng như các rào cản, khó khăn, thách thức, từ đó khuyến nghị các giải pháp xúc tiến thực hiện trong thời gian tới. Có thể thấy, trong quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội và các bộ quy tắc ứng xử, các doanh nghiệp phải chi phí khá lớn cho đầu tư để cải thiện các điều kiện vệ sinh lao động. Trong điều kiện cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp không thể trang trải nổi những khoản chi này, bởi vậy có thể nhà nước phải hỗ trợ cho vay từ quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ xúc tiến thương mại… với một chính sách ưu tiên, ưu đãi.
3.3.2.5. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về ghi nhãn hàng dệt may.
Như đã phân tích, các quy định và tiêu chuẩn ghi nhãn hàng dệt may của các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản có xu hướng ngày càng cao và phức tạp hơn. Bên cạnh những quy định cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ an toàn sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái và chống lừa dối, gian lận thương mại, còn có nhiều quy định không góp phần vào việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng hoặc có thể có lợi cho người tiêu dùng nhưng gây thêm quá nhiều thủ tục cho doanh nghiệp (ví dụ nhãn phải được đăng ký, phê chuẩn, chấp thuận trước, nhãn phải được làm bằng một số nguyên liệu nhất định….). Hay những quy định về nhãn sinh thái cũng tạo thêm gánh nặng cho các DN DMXK các nước đang và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần tích cực đàm phán với các nước nhập khẩu để giảm thiểu những quy định trên mức cần thiết và đảm bảo rõ ràng minh bạch hơn trong các quy định về ghi nhãn của các thị trường nhập khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp phải nghiên cứu, tìm hiểu và nhận biết rõ các quy định và yêu cầu ghi nhãn chính đáng của các thị trường nhập khẩu về thành phần sợi, nước xuất xứ, hướng dẫn sử dụng để có biện pháp thích nghi, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định này
3.3.2.6. Đối với các quy định về xuất xứ hàng dệt may.
Để đảm bảo hàng hóa đáp ứng yêu cầu về xuất xứ, các DN cần nghiên cứu kỹ quy tắc xuất xứ trong Hiệp định TPP (sau khi được ký kết) và EVFTA để chắc chắn hàng hóa đáp ứng quy tắc cộng gộp và các tiêu chí xuất xứ tương ứng trước khi sản xuất, xuất khẩu. Đặc biệt cần nhận thức rõ một điều là nguyên nhân chính cho khó khăn hiện tại của VN trong vấn đề xuất xứ hàng hóa là do VN vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất xuất khẩu chủ lực, và nguyên nhân sâu xa từ thực trạng này chính là do VN chưa xây dựng được công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may, hầu hết các phụ kiện đều phải nhập khẩu. Cho nên, nếu thực hiện nguyên tắc xuất xứ hàng hóa theo TPP, hay theo EVFTA, thì không có đủ cơ sở để khẳng định mặt hàng mà chính chúng ta sản xuất mang nguồn gốc VN. Vì vậy, vấn đề căn cơ nhất hiện nay là VN phải:
- Khẩn trương xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho ngành may mặc cũng như các ngành khác. Đó là giải pháp căn cơ nhất. Bên cạnh đó, chúng ta có thể có những giải pháp tạm thời khác, ví dụ như thương lượng với các nước TPP để có thời gian, gọi là thời gian ân huệ nhất định để có điều kiện thời gian cho công nghệ phụ trợ đó phát triển. Xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành hàng sản xuất xuất khẩu là giải pháp cấp bách nhất hiện nay đối với VN trong bối cảnh đàm phán Hiệp định TPP và Hiệp định tự do thương mại Việt Nam - EU đang đi vào giai đoạn cuối cùng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận khách quan là giải pháp này mang tính dài hạn.
- Việt Nam cần có qui hoạch khoa học, cụ thể về các vùng trồng, sản xuất, cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Nếu chỉ chú trọng đầu tư cho ngành dệt may mà thiếu chú ý phát triển các vùng sản xuất nguyên phụ liệu thì dệt may Việt Nam đã, đang và sẽ còn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Do đó, Việt Nam cần có những chính sách quy hoạch tổng thể cũng như chi tiết qua các giai đoạn phát triển, đặc biệt nên chú trọng phát triển những vùng trồng bông nuôi tằm giảm thiểu hoạt động nhập khẩu yếu tố đầu vào. Do vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải xây dựng các trung tâm sản xuất kinh doanh nguyên phụ liệu. Cần có kế hoạch kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài Hong Kong, Đài Loan, Nhật Bản tham gia triển khai các trung tâm nguyên phụ liệu này và cao hơn nữa, hợp tác đầu tư máy móc thiết bị sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam, nhằm ổn định thị trường.
- Mỗi doanh nghiệp cần xác định chiến lược kinh doanh riêng cho mình tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, hoặc là tận dụng những nguồn nguyên liệu sẵn có, để chiếm lĩnh thị trường nội địa và phát huy thế mạnh, tạo thương hiệu đẩy mạnh xuất khẩu hoặc là xây dựng chuỗi cung ứng riêng ngay trong nước cho chính doanh nghiệp. Dù theo định hướng nào thì khi Việt Nam tham gia những hiệp định TPP, các doanh nghiệp cần phải thông suốt mọi quy định, và nắm bắt kịp thời những lợi thế, từ đó có những chiến lược phù hợp thì mới tránh được những thua thiệt trong thương mại quốc tế.
Tóm lại, chương 3 đã tiến hành nghiên cứu, làm rõ xu hướng phát triển của RCKT và khả năng gia tăng áp dụng RCKT đối với hàng DMXK của các thị trường nhập khẩu chính thời gian tới. Theo đó, RCKT với những ưu điểm vượt trội trong thế giới toàn cầu hóa và KHCN phát triển như vũ bão, đang củng cố vai trò quyết định trong định hình các dòng chảy TMQT. Xu hướng là các RCKT ngày càng phát triển cao hơn, được các nước sử dụng ngày càng nhiều hơn và trở nên tinh vi, phức tạp hơn, với các mối quan tâm hàng đầu là an toàn sức khỏe con người, bảo vệ môi trường, yêu cầu chất lượng, ngăn chặn các hành vi lừa dối và bảo vệ người tiêu dùng,... Những xu hướng phát triển mới của RCKT của các thị trường nhập khẩu sẽ tác động mạnh mẽ, nhiều mặt hơn tới hàng DMXK của Việt Nam. Vì vậy, thời gian tới, RCKT cần phải đuợc quan tâm, chú ý nhiều hơn trên cả góc độ vĩ mô và vi mô.
Chương 3 cũng đưa ra quan điểm và định hướng vượt RCKT đối với hàng DMXK thời gian tới trên tinh thần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chủ động phòng ngừa, nỗ lực hết mình và có định hướng chiến lược cả ở tầm quốc gia và DN để vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất các nhóm giải pháp cụ thể đối với Nhà nước, Hiệp hội và DN nhằm vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM. Những hỗ trợ không thể thiếu của Nhà nước cho DN là ở việc tăng cường năng lực pháp lý và QLNN về TBT, tăng cường hội nhập quốc tế về TBT, hỗ trợ đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, KHCN, hỗ trợ cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống tin dự báo, cảnh báo và khuyến cáo về RCKT mới cho doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DN,... Các DN phải phát huy nội lực bản thân, nỗ lực đổi mới không ngừng, triển khai chiến lược kinh doanh XK bền vững để sản phẩm đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu, qua đó phát triển thương hiệu, phát triển XK hàng DM Việt Nam.
Các nhóm giải pháp này được xây dựng một cách hệ thống, có căn cứ khoa học và chắc rằng sẽ có tác dụng thiết thực thúc đẩy sự phát triển xuất khẩu ngành dệt may nói riêng và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng và Nhà nước ta nói chung.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa sâu sắc như hiện nay, đi liền với xu hướng tự do hóa thương mại với việc cắt giảm và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan truyền thống, là xu hướng ngày càng phát triển của các RCKT thương mại như một tất yếu khách quan. Các RCKT thương mại, với những ưu điểm nổi trội so với rào cản thuế quan truyền thống, đóng vai trò quyết định trong định hình các dòng chảy của TMQT ngày nay.
RCKT của các thị trường nhập khẩu chính Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,... đối với hàng DMXK của Việt Nam cũng phát triển nở rộ và ngày càng trở nên cao hơn, tinh vi, phức tạp hơn để cản trở sự thâm nhập mạnh mẽ của hàng DMXK của nước ta. Điều này đặt ra những khó khăn, thách thức lớn cho cả Nhà nước và cộng đồng DN Việt Nam trong vượt RCKT của các thị trường phát triển để đẩy mạnh XK hàng DM, thực hiện mục tiêu chiến lược xuất nhập khẩu và chiến lược phát triển ngành DM đến năm 2020, nhất là trong điều kiện thực tế hiện nay, năng lực vượt RCKT của Việt Nam còn hạn chế do có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế và khoa học, công nghệ so với Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
Xuất phát từ mâu thuẫn giữa việc gia tăng sử dụng các RCKT của các nước phát triển gây cản trở cho XK hàng DM của Việt Nam với năng lực vượt RCKT còn yếu nhưng phải nỗ lực để tăng cường XK hàng DM của Việt Nam sang các thị trường này, NCS đã thực hiện đề tài luận án tiến sĩ “Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu và giải pháp của Việt Nam” với mục đích nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất các giải pháp nhằm vượt RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam. Luận án đã đạt được những kết quả chính và có những điểm mới sau đây:
- Thứ nhất, Luận án có cách tiếp cận mới, nhìn nhận RCKT theo hướng tích cực, coi RCKT là những quy định, tiêu chuẩn hợp lý, khoa học buộc các quốc gia, các nhà nhập khẩu, xuất khẩu phải tuôn thủ. Theo đó, RCKT được tiếp cận từ hai phía trong mối quan hệ giữa các quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa, trên cả 2 bình diện Nhà nước và doanh nghiệp.
- Thứ hai, Luận án đã phát triển một số vấn đề lý luận về RCKT và vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, trong đó: Luận giải và đưa ra quan điểm riêng về khái niệm và cách phân loại mới RCKT; Đưa ra phương thức vượt RCKT và đề xuất mô hình vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, theo đó các doanh nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT, nhưng vai trò của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại, các tổ chức xã hội dân sự khác trong và ngoài nước là vô cùng quan trọng để doanh nghiệp có thể vượt qua RCKT và xuất khẩu thành công; Xác định hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT của một quốc gia, trong đó, nhóm nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu (nhân tố trong nước) giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định đến sự phát triển bền vững và hiệu quả của xuất khẩu hàng dệt may. Và trong số các nhân tố này thì nhân tố thuộc về tư duy nhận thức của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân đối với sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may giữ vai trò quan trọng nhất, có thể thúc đẩy hoặc cản trở việc đáp ứng RCKT. Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt RCKT đối với hàng DMXK của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan cả trên bình diện nhà nước và doanh nghiệp, tập trung vào các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước và các nỗ lực vượt RCKT của bản thân DN, rút ra những bài học có thể áp dụng và không nên áp dụng vào Việt Nam.
- Thứ ba, Luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng XK và thực trạng sử dụng các RCKT của các nước nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK hàng DM của Việt Nam cũng như những biện pháp vượt RCKT đối với hàng DM của. Chính phủ và DN Việt Nam chỉ rõ rằng để vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu chủ yếu, hàng DM Việt Nam đã có những thích nghi, đổi mới quan trọng, đặc biệt là trong công nghệ sản xuất, tạo dựng thương hiệu và thay đổi cách thức giám sát, kiểm tra. Nhưng thực trạng đáp ứng các rào cản này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế trong thời gian qua. Những hạn chế đó có nguyên nhân khách quan do trình độ phát triển kinh tế, KHCN của Việt Nam còn thấp, nhưng nguyên nhân chủ quan quan trong nhất là do chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, kể cả trong các cơ quan chính phủ và các DNDM. Nhận thức và ý thức về việc chủ động nắm bắt xu hướng RCKT để có biện pháp phòng ngừa mang tầm chiến lược còn yếu. Hiện
nay các biện pháp vượt RCKT còn mang tính đối phó, bị động và ngắn hạn. Chính phủ và cộng đồng DNDM chưa thật sự có sự gắn kết chặt chẽ với nhau để tìm giải pháp,...
Thứ tư, Luận án đã tiến hành nghiên cứu, làm rõ xu hướng phát triển của RCKT và khả năng gia tăng áp dụng RCKT đối với hàng DMXK của các thị trường nhập khẩu chính thời gian tới. Theo đó, RCKT với những ưu điểm vượt trội trong thế giới toàn cầu hóa và KHCN phát triển như vũ bão, đang củng cố vai trò quyết định trong định hình các dòng chảy TMQT. Xu hướng là các RCKT ngày càng phát triển cao hơn, được các nước sử dụng ngày càng nhiều hơn và trở nên tinh vi, phức tạp hơn, với các mối quan tâm hàng đầu là an toàn sức khỏe con người, bảo vệ môi trường, yêu cầu chất lượng, ngăn chặn các hành vi lừa dối và bảo vệ người tiêu dùng,... Những xu hướng phát triển mới của RCKT và mức độ sử dụng RCKT tăng lên của các thị trường nhập khẩu sẽ có khả năng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt hơn tới hàng DMXK của Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, RCKT cần phải đuợc quan tâm, chú ý nhiều hơn trên cả góc độ vĩ mô và vi mô.
Thứ năm, Luận án đã nêu ra các quan điểm và định hướng vượt RCKT đối với hàng DMXK thời gian tới trên tinh thần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chủ động phòng ngừa, nỗ lực hết mình và có định hướng chiến lược cả ở tầm quốc gia và DN để vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM.
Thứ sáu, Luận án đề xuất các nhóm giải pháp chung và cụ thể đối với Nhà nước, Hiệp hội và DN nhằm vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM. Nhà nước và Hiệp hội DM cần giúp đỡ hỗ trợ các DN vượt rào. Những hỗ trợ không thể thiếu của Nhà nước cho DN là ở việc tăng cường năng lực pháp lý và QLNN về TBT, tăng cường hội nhập quốc tế về TBT, hỗ trợ đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, KHCN, hỗ trợ cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống tin dự báo, cảnh báo và khuyến cáo về RCKT mới cho doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DN,... Các DN phải chủ động, tích cực phát huy nội lực bản thân, nỗ lực đổi mới không ngừng, triển khai chiến lược kinh doanh XK bền vững để sản phẩm đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu, qua đó phát triển thương hiệu, phát triển XK hàng DM Việt Nam.