lãi nếu như các ngân hàng không lâm vào tình trạng phá sản. (Nguyễn Văn Tiến 2005)
Tác động đối với nền kinh tế:
Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Do đó, rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế.
Ở mức độ thấp, rủi ro tín dụng khiên cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khan dẫn đến phá sản, thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng, gây nên khủng hoảng đối với toàn bộ
nền kinh tế,
ảnh hưởng đến đời
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông - 1
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Quản Trị Nhtm
- Phân Tích Thực Trạng Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Tmcp Phương Đông
- Thực Trạng Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Tmcp
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
sống xã hội và sự phát triển của đất nước. (Nguyễn Văn Tiến 2005)
1.2. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, khi rủi ro xảy ra đều dẫn đến những hậu quả khó lường và không dễ dàng khắc phục trong một thời gian ngắn. Như đã đề cập ở trên, rủi ro to tín dụng có thể mang lại những
hậu quả rất nguy hiểm đối với ngân hàng thương mại, dù quy mô lớn nhỏ,
phạm vi hoạt động rộng hay hẹp. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng được gắn chặt với hoạt động cấp tín dụng, nó thể hiện sự vận dụng các nguyên tắc quản trị nói chung vào hoạt động có tính đặc thù của quá trình cấp tín dụng. Xuất phát theo cách hiểu như vậy, theo tác giả, khái niệm quản trị rủi ro tín dụng có thể được trình bày như sau:
Quản trị rủi ro tín dụng là toàn bộ quá trình xây dựng chính sách, tổ chức bộ máy, quy trình kiểm tra giám sát liên tục bắt đầu từ khâu thẩm định khách hàng đến khâu quyết định cho vay, giải ngân theo dõi và xử lý các khoản nợ có vấn đề
nhằm giảm tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
Mục đích cao nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro tín dụng được kiểm soát trong khả năng của ngân hàng có thể chấp nhận được, đồng thời với việc tối đa hóa giá trị mà ngân hàng kỳ vọng đạt được trong điều kiện biến động của môi trường kinh tế.
1.2.2 Vai trò quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng tốt góp phần giảm tổn thất, giảm thiểu chi phí hoạt động và gia tăng lợi nhuận cho chính bản thân ngân hàng. Chi phí cho việc trích lập dự phòng và xử lý các khoản rủi ro tín dụng là rất lớn và thường được tính vào chi phí hoạt động, vì vậy việc trích lập dự phòng rủi ro sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, nếu công tác quản trị rủi ro tín dụng có hiệu quả, các khoản tín dụng trên danh mục ngân hàng có chất lượng tốt sẽ tạo điều kiện để ngân hàng giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận.
Thứ
hai, quản trị
rủi ro tín dụng tốt góp phần tạo điều kiện làm lành
mạnh tình hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ vỡ nợ của các ngân hàng, cũng như gia tăng năng lực tài chính của các ngân hàng trong quá trình thực hiện các cam kết về việc gia nhập WTO trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Thứ ba, quản trị rủi ro tín dụng góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội của đất nước, khu vực. Thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững, tạo lòng tin vững chắc từ công chúng và khách hàng của các ngân hàng cũng như tạo lòng tin và gia tăng mức độ tín nhiệm đối với cộng đồng, các tổ chức quốc tế đối với việc quản trị hoạt động ngân hàng thương mại.
1.2.3 Nguyên tắc hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.3.1 Nguyên tắc cơ bản
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro, vì vậy một trong nguyên tắc của ngân hàng là chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, việc chấp nhận rủi ro của ngân hàng không phải là thụ động mà là chấp nhận một cách chủ động, cụ
thể
trong nhiều trường hợp ngân hàng có thể
chuyển nó thành cơ
hội thu lợi
nhuận cho mình. Việc chấp nhận mức độ, lựa chọn loại bỏ rủi ro tín dụng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng ta trong quá trình quản tị rủi ro tín dụng. Các ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các mức độ rủi ro tín dụng mà thiệt hại khi các rủi ro xảy ra không được vượt quá mức thu nhập phù hợp.
Thứ hai, ngân hàng phải duy trì các danh mục tín dụng phù hợp, tính toán các khả năng gánh chịu rủi ro của mình để thực hiện việc cấp khoản tín dụng. Ngân hàng luôn phải tuân thủ theo quy tắc không cấp tín dụng cho những món vay không có khả năng khống chế và kiểm soát.
Thứ ba, các rủi ro của ngân hàng là độc lập nhau, do vậy, các ngân hàng phải có biện pháp quản lý riêng rẽ, không được gộp các rủi ro để đưa ra cùng một phương pháp điều hành. Cùng một loại rủi ro nhưng ngân hàng phải sắp xếp, phân loại và quản lý theo từng nhóm nhằm phù hợp với yêu cầu quản lý và tuân theo quy định của pháp luật.
Thứ
tư, hoạt động quản trị
rủi ro tín dụng cần phải dựa trên nền tảng
những tiêu chí chung của chiến lược phát triển cũng như các chính sách của ngân hàng.
Thứ năm, hoạt động quản trị rủi ro tín dụng nhằm mục đích xử lý các tác động tiêu cực của rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, chi phí của ngân hàng bỏ ra cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng phải thấp hơn những giá trị thiệt hại do những rủi ro tín dụng có khả năng xảy ra.
1.2.3.2 Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng
Uỷ ban Basel một ủy ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân
hàng được thành lập vào năm 1974 bởi các thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh và Mỹ). Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc tại Thành phố Basel (Thụy Sĩ). Mục tiêu của Ủy ban là hiểu rõ hơn về các vấn đề mấu chốt trong việc giám sát hoạt động ngân hàng và nâng cao chất lượng giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu đó, Ủy ban trao đổi các thông tin về các vấn đề giám sát hoạt động ngân hàng của các quốc gia, các phương pháp và kỹ thuật với phương châm là để có một sự hiểu biết đồng nhất về các vấn đề đó. Trên cơ sở đó, Ủy ban dùng sự hiểu biết đồng nhất này để xây dựng các văn bản hướng dẫn và tiêu chuẩn trong các lĩnh vực mà họ cho là cần thiết. Ủy ban Basel được biết đến trên khắp thế giới về các thông lệ quốc tế mà họ đưa ra về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả; và Thỏa ước về giám sát hoạt động ngân hàng xuyên biên giới.
Theo quan điểm các nhà chính sách, để thanh tra, giám sát một cách hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính, cần hiểu đúng về tính chất và các đặc điểm hoạt động của mỗi loại hình tổ chức tài chính đó. Ủy ban Basel đưa ra các nguyên tắc cơ bản trong việc dựa trên đặc điểm của các tổ chức tín dụng trong đó, một số nội dung liên quan đến việc quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại được thể hiện ở một số nguyên tắc như dưới đây:
Nguyên tắc 1: Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự hợp tác.
Nguyên tắc 2: Các hoạt động được phép
Nguyên tắc 6: An toàn vốn tối thiểu
Nguyên tắc 7: Quy trình quản trị rủi ro
Nguyên tắc 8: Rủi ro tín dụng
Nguyên tắc 9: Tài sản có rủi ro, dự phòng và dự trữ
Nguyên tắc 10: Giới hạn mức cho vay
Nguyên tắc 11: Rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan
Nguyên tắc 12: Rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi
Nguyên tắc 16: Rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng
Nguyên tắc 17: Kiểm tra và kiểm toán nội bộ
Nguyên tắc 18: Lạm dụng các dịch vụ tài chính
Nguyên tắc 19: Phương pháp giám sát
Nguyên tắc 20: Kỹ thuật giám sát
Nguyên tắc 21: Thông tin giám sát
Nguyên tắc 24: Giám sát hợp nhất
(Chi tiết tham khảo theo theo phụ lục 01 của luận văn)
1.2.4. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Quy trình quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Nguồn: Chrinko R.S Guill, A framework for assessing credit risk in depository institution, 2000
1.2.4.1 Nhận diện rủi ro
Nhận diện rủi ro tín dụng là bước đầu tiên trong quy trình quản lý rủi ro tín dụng. Nhận diện rủi ro tín dụng được xét trên hai góc độ: về phía ngân hàng và về phía khách hàng.
Về phía ngân hàng: Rủi ro tín dụng được thể hiện qua quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, nợ quá hạn, nợ xấu và dự phòng rủi ro. Do đó, khi các yếu tố này có thiên hướng lệch như quy mô tín dụng tăng quá nhanh vượt qua khả năng quản trị của ngân hàng, hay cơ cấu tín dụng tập trung quá mức vào một ngành,
một lĩnh vực rủi ro, hay các chỉ
tiêu nợ
quá hạn, nợ
xấu có dấu hiệu vượt
ngưỡng cho phép, dự phòng rủi ro được sử dụng hết, ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro. Do đó, các ngân hàng thương mại cần phân tích toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng để nhận biết rủi ro tín dụng về qui mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, về ngành, về loại tiền.
Về phía khách hàng: Khi khách hàng có những dấu hiệu khó có khả năng trả nợ, tình hình tài chính xấu, nguy cơ rủi ro sẽ xảy ra. Lúc đó, ngân hàng cần nhận biết được khả năng xảy ra rủi ro để có quyết định kịp thời. Do đó, các ngân hàng thương mại cần thực hiện phân tích đánh giá khách hàng từ khi tiếp xúc khách hàng, tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng, thẩm định khách hàng trước, trong và sau khi cho vay.
1.2.4.2 Đo lường rủi ro
Đo lường rủi ro là bước tiếp theo sau khi đã nhận biết được rủi ro, có thể sử dụng nhiều mô hình rủi ro để đo lường rủi ro tín dụng.
Mô hình định tính về rủi ro tín dụng
Mô hình 6C
Mô hình định tính không lượng hóa bằng con số
mà chỉ
phản ánh tính
chất, đặc điểm của khách hàng. Các tiêu chí này được thể hiện rõ nét thông qua mô hình 6C:
Tư
cách khách hàng (Character):
Cán bộ
tín dụng phải chắc chắn rằng
khách hàng có mục đích rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
Năng lực khách hàng (Capacity): Khách hàng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, phải là đại diện pháp luật của công ty, có tư cách pháp nhân.
Thu nhập của khách hàng: Cán bộ tín dụng phải xác định rõ nguồn trả nợ của khách hàng.
Bảo đảm tiền vay (Collateral): Khách hàng được cấp tín dụng dựa trên giá trị tài sản bảo đảm: cầm cố, thế chấp, tín chấp, bảo lãnh của bên thứ ba.
Các điều kiện (Conditions): Cán bộ tín dụng cần phải quy định tín dụng tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ.
Kiểm soát (Control): Cán bộ tín dụng cần đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các điều kiện của ngân hàng.
Mô hình này có ưu điểm là đơn giản, dễ làm, tuy nhiên việc thực hiện phụ thuộc quá nhiều vào mức độ chính xác nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng.
Mô hình định lượng về rủi ro tín dụng:
Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ IRB
Năm 2004, Ủy ban Basel đã xây dựng hiệp định mới về “Tiêu chuẩn vốn quốc tế” – mà chúng ta gọi là Basel II. Theo đó, các ngân hàng sẽ sử dụng mô hình dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng.
EL = PD x LGD x EAD
EL: Tổn thất dự kiến
PD: Xác xuất vỡ nợ của khách hàng/ngành
LGD: Tỷ trọng số dư rủi ro của ngân hàng sẽ bị tổn thất khi khách hàng không trả được nợ.
EAD: Số dư nợ vay của khách hàng/ngành khi vỡ nợ
Với PD, LGD và EAD, hai yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu tưởng chừng rất định tính, mà các ngân hàng thường xuyên nhắc đến trong quyết định cấp tín dụng là khả năng trả nợ và mong muốn trả nợ của khách hàng đã được lượng hóa cụ thể. Và cũng nhờ PD, LGD và EAD, hàng trăm, hàng chục các nhân tố có
tác động đến khách hàng cũng như các khoản tín dụng cấp cho họ đã được tóm tắt, phản ánh chỉ qua ba cấu phần rủi ro đó.
Mô hình điểm số Z
Mô hình điểm số “Z” do E.I. Altman (2001) hình thành để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay, cách tính như sau:
Z= 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1= tỷ số “vốn lưu động ròng /tổng tài sản” X2 = tỷ số “lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản”
X3 = tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi /tổng tài sản” X4 = tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5 = tỷ số “Doanh thu/tổng tài sản”
Trị số Z càng cao người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Điểm số Z là thước đo tổng hợp về xác suất vỡ nợ của khách hàng. Theo mô hình này tất cả các công ty có chỉ số Z nhỏ hơn 1,81 được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao, ngân hàng sẽ không cho vay nếu công ty có chỉ số Z nhỏ hơn 1,81 cho đến khi công ty cải thiện được chỉ số Z.
Mô hình điểm số Z có kỹ thuật đo lường tương đối đơn giản. Tuy nhiên mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Trong khi đó, yếu tố thị trường không được xét đến, đặc biệt là điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính thay đổi liên tục như hiện nay.
Mô hình xếp hạng Moody’s
Mô hình xếp hạng Moody’s tập trung vào các yếu tố cơ bản và các yếu tố kinh doanh trọng yếu ảnh hưởng đến độ rủi ro của khách hàng. Moody’s đánh giá khả năng tạo tiền tương lai của bên đi vay, dựa trên phân tích các điểm mạnh,