ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này, trong đó phải kể đến: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989; Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 06/7/1995; Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 02/7/2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008) và văn bản đang có hiệu lực thi hành là Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Cùng với đó, Chính phủ cũng đã ban hành một loạt các Nghị định quy định cụ thể về việc xử lí vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà nước.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm này, đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo cơ sở cần thiết để quy định, xử lý cũng như đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đưa ra định nghĩa chính thức về vi phạm hành chính.
Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 Pháp lệnh này quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định nghĩa trên cho chúng ta thấy được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính là: chủ thể, hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi và bị xử phạt hành chính.
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính nhưng Khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này đã định nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi
phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tại Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008), vi phạm hành chính cũng được quy định một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, quan niệm về vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Khái quát những dấu hiệu bản chất đó, Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính, theo đó: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
Tương tự như những hành vi VPHC khác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một hành vi được coi là vi phạm quy định về PCCC, chỉ khi hành vi đó trái với các quy định của các quy phạm pháp luật về PCCC và các quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC; khi sự vi phạm có các dấu hiệu pháp lý do pháp luật về PCCC quy định và sẽ bị nhà nước truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân hoặc tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm đó. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản đó là:
- Hành vi của các chủ thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động xâm hại đến trật tự QLNN trong lĩnh vực PCCC;
Có thể bạn quan tâm!
- Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội - 1
- Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội - 2
- So Sánh Vi Phạm Hành Chính Và Tội Phạm Trong Lĩnh Vực Phòng Cháy Và Chữa Cháy
- Tính Chính Xác Trong Các Quy Định Về Hành Vi Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Phòng Cháy Và Chữa Cháy
- Thực Trạng Pháp Luật Về Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Phõng Cháy Và Chữa Cháy
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
- Hành vi vi phạm phải là hành vi trái với quy định pháp luật về PCCC của nhà nước, tức là hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử lý VPHC;
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là hành vi vi phạm pháp luật về PCCC chỉ khi nào xác định được chủ thể thực hiện hành vi đó có lỗi;
- Hậu quả thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về PCCC gây ra (đây không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi hành vi vi phạm);
- Giữa hành vi vi phạm về PCCC và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả.
Từ định nghĩa vi phạm hành chính và những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC như sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
1.1.1.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy cũng mang đầy đủ các đặc điểm của vi phạm hành chính nói chung. Đồng thời, nó có những đặc trưng riêng để phân biệt với các vi phạm hành chính khác. Vì vậy, có thể chỉ ra vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy có những đặc điểm sau:
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là hành vi trái pháp luật về PCCC.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC trước hết phải là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan, tổ chức có tính nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động
của các chủ thể pháp luật PCCC. Pháp luật PCCC không điều chỉnh những suy nghĩ, tư tưởng nếu như không biểu hiện thành các hành vi cụ thể.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC không những là hành vi nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể pháp luật PCCC mà hành vi đó còn phải trái pháp luật PCCC. Hành vi trái pháp luật PCCC là hành vi được thực hiện không đúng với những quy định của pháp luật PCCC như không làm những việc mà pháp luật PCCC yêu cầu, làm những việc mà pháp luật PCCC cấm hoặc tiến hành những hoạt động vượt quá giới hạn, phạm vi cho phép của pháp luật PCCC,…
Như vậy, muốn xem xét hành vi nào đó xâm hại đến các quan hệ xã hội do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện có phải là vi phạm hành chính trong PCCC hay không thì điều cần thiết là phải căn cứ vào các quy định, yêu cầu được nêu ra trong các quy phạm pháp luật PCCC để xem xét. Nói cách khác, hành vi xâm hại trên nếu được mô tả trong các văn bản pháp luật quy định về hành vi và xử lý VPHC trong lĩnh vực PCCC thì bị coi là trái pháp luật PCCC. Điều này được khẳng định tại Điểm d Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính như sau: “Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định”.
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là hành vi có lỗi của chủ thể.
Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể, nghĩa là chủ thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật PCCC của mình. Như vậy, những hành vi trái pháp luật PCCC mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó thì không bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC.
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy xâm phạm trật tự quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là hành vi phạm xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội trong QLNN về PCCC. Các quan hệ xã hội này rất đa dạng, phức tạp và diễn ra trong hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi toàn quốc, từng địa phương và trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở, hộ gia đình. Những quan hệ đó được Nhà nước tác động, điều chỉnh bằng Luật Phòng cháy và chữa cháy, bằng hệ thống các nguyên tắc PCCC, bằng các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể về PCCC, để các chủ thể tham gia các hoạt động PCCC, lựa chọn, điều khiển hành vi của mình cho phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong các quy phạm pháp luật về PCCC.
- Tính chịu xử phạt hành chính.
Tính chịu xử phạt hành chính là một trong các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Một hành vi dù có tính xâm hại đến các quy định QLNN về PCCC, trái pháp luật PCCC nhưng không được pháp luật quy định phải bị xử phạt hành chính thì không thể gọi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC.
Các đặc điểm nêu trên về cơ bản đã phản ánh đầy đủ các nội dung của khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC, đây chính là cơ sở quan trọng cho việc xác định hành vi vi phạm trong lĩnh vực PCCC trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Vì vậy, các chủ thể xử phạt cần nắm vững các đặc điểm này để có quyết định chính xác trong việc xác định có hay không có vi phạm hành chính, từ đó có hình thức và mức xử phạt phù hợp với hành vi vi phạm hành chính do các chủ thể vi phạm gây ra.
1.1.1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy cũng là một dạng của vi phạm hành chính nên cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố là: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
a. Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm hành chính bao gồm: hành vi trái pháp luật PCCC, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật PCCC với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội và các dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
- Hành vi trái pháp luật PCCC:
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước về PCCC và đã bị pháp luật PCCC ngăn cấm, theo đó pháp luật quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính.
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực PCCC là hành vi có tính chất trái pháp luật PCCC, vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực PCCC dưới hình thức không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những quy định của pháp luật PCCC, xâm phạm đến những khách thể được pháp luật PCCC bảo vệ.
Hành vi không thực hiện những quy định về PCCC như: Không bố trí, niêm yết tiêu lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa cháy; Không cử người có trách nhiệm tham gia đoàn kiểm tra an toàn phòng cháy và chữa cháy; Không thực hiện việc báo cáo về công tác phòng cháy và
chữa cháy; Không có biện pháp, phương tiện ngăn ngừa tích tụ tĩnh điện theo quy định; Sản xuất, kinh doanh, san, chiết, nạp chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ mà không có giấy phép;…
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Hậu quả của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC không nhất thiết là thiệt hại cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi của cá nhân, tổ chức bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC chỉ khi hành vi đó đã gây ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. Trong các trường hợp này, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại cụ thể là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc cá nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra.
- Dấu hiệu khác:
Đối với một số loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thường, những yếu tố này có thể là:
+ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: Hành vi “không duy trì đầy đủ các điều kiện về an toàn phòng cháy và chữa cháy khi sử dụng phương tiện giao thông cơ giới vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ” chỉ được coi là vi phạm quy định trong vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ theo quy định tại Điều 32 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2013 khi thực hiện “trong thời gian vận chuyển”.
+ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm: Ví dụ: Hành vi “sử dụng diêm, bật lửa, điện thoại di động” chỉ được coi là vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị, dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt theo quy định tại Điều 33 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2013 khi thực hiện “ở những nơi có quy định cấm”.
15
+ Công cụ, phương tiện vi phạm: Ví dụ: Phương tiện vi phạm hành chính gồm đồ vật, công cụ, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính như phương tiện vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ; phương tiện phòng cháy và chữa cháy; phương tiện, thiết bị thông tin báo cháy; phương tiện chữa cháy thông dụng;…
b. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm. Bao gồm:
- Lỗi của chủ thể vi phạm:
Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi phải có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc có nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ cho rằng chủ thể thực hiện hành vi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không có vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC xảy ra.
Vấn đề lỗi của tổ chức, có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi nên không đặt ra vấn đề lỗi của tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC, chỉ cần xác định tổ chức đó có vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là đủ. Quan