Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đó, vừa qua nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng tăng trưởng hiệu quả, an toàn và bền vững, đồng thời nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro; hệ thống NHTM Việt Nam cũng đã từng bước ứng dụng Hiệp ước Basel trong công tác quản trị rủi ro ngân hàng đặc biệt là rủi ro tín dụng như: quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, quy định về trích lập dự phòng cho rủi ro tín dụng, quy định về an toàn vốn đối với rủi ro phát sinh từ cho vay chứng khoán.
Các NHTM đã xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong hoạt động đo lường rủi ro
Nếu thực hiện phân loại khách hàng và nợ theo Văn bản hợp nhất số 22/VBHN- NHNN ngày 04/6/2014 của NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD sẽ trung thực và theo sát thông lệ quốc tế hơn, khi đó tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng gần 2-3 lần, dẫn đến việc các NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn, lợi nhuận giảm. Trên thực tế, hiện nay mới chỉ có một số NHTM lớn tại Việt Nam thực hiện theo Văn bản này về việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại nợ của khách hàng doanh nghiệp. Đó là Vietinbank, BIDV, VCB, STB, Agribank, ...
Vào đầu năm 2006, BIDV đã ký hợp đồng thuê Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s thực hiện đánh giá và xếp hạng, như vậy BIDV được coi là NHTM Nhà nước đầu tiên tại Việt Nam được đánh giá và xếp hạng tín nhiệm bởi một tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế và có uy tín toàn cầu như Moody’s. BIDV đã sử dụng phương pháp chấm điểm các nhóm chỉ tiêu tài chính, phi tài chính của từng doanh nghiệp, kết hợp với phương pháp chuyên gia và phương pháp thống kê để xếp hạng doanh nghiệp, đã xây dựng ba hệ thống chấm điểm khác nhau cho ba loại khách hàng chính đó là: tổ chức kinh tế (doanh nghiệp), TCTD (còn gọi là các định chế tài chính) và khách hàng là cá nhân; lựa chọn 35 ngành kinh tế. Một khách hàng có 54 chỉ tiêu (14 chỉ tiêu tài chính, 40 chỉ tiêu phi tài chính). Phần mềm được Trung tâm Công nghệ thông tin BIDV xây dựng với hơn 28.000 dữ liệu. Khách hàng được xếp vào các mức: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D theo thang điểm 100, 80, 60, 40, 20; kèm theo đó là chính sách khách hàng và ra đời Hội đồng tín dụng các cấp.
Ngày 25/9/2008, NHNN đã có văn bản số 8738/NHNN-CNH chấp thuận cho NHTM Cổ phần Quân đội thực hiện chính sách trích lập dự phòng rủi ro trên kể từ Quý IV/2008. Trước đó, NHTM Cổ phần Quân đội đã tiến hành xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng và áp dụng thử nghiệm từ tháng 3/2008.
Ngoài BIDV các ngân hàng khác như Agribank, VCB, Vietinbank, STB,...cũng
đã xây dựng xong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Trong đó, phương pháp chấm
điểm trong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV, VCB, Vietinbank là phương pháp rất phổ biến trên thế giới, được các tổ chức định hạng quốc tế như S&P, Moody’s... đang sử dụng, theo đó việc xếp hạng khách hàng được thực hiện thông qua việc chấm điểm một bộ các chỉ tiêu liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng của các ngân hàng này đã sử dụng chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính, được phân tổ đến theo từng cấp. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ với nhau, bổ sung lẫn nhau và được lượng hóa tối đa nhằm giảm thiểu các sai sót chủ quan của người đánh giá. Mặt khác, các thông tin trong bảng xếp hạng tín dụng nội bộ cũng được xây dựng trên cơ sở các chỉ tiêu bù trừ lẫn nhau vì thế nó có khả năng tự bộc lộ những bất cập của kết quả đánh giá nếu như cán bộ tín dụng đánh giá sai. Điều này sẽ giúp người phê duyệt dễ dàng phát hiện các sai sót trong quá trình chấm điểm của cán bộ tín dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Tỷ Lệ Dự Phòng Đã Trích/dự Phòng Phải Trích Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam (2013-2016)
- Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp
- Một Số Định Hướng Cấp Tín Dụng Doanh Nghiệp Tại Các Nhtm (Giai Đoạn 2016-2018)
- Các Biến Và Các Giả Thuyết Cần Kiểm Định Cho Hệ Thống Nhtm
- Chạy Mô Hình Pooled Ols Sau Khi Thêm Biến Lạm Phát Và Tăng Trưởng Kinh Tế
- Các Giải Pháp Tăng Cường Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Hệ thống xếp hạng tín dụng theo thông lệ quốc tế là tiền đề để các NHTM Việt Nam hoàn thiện các quy trình, thủ tục cấp tín dụng qua đó nâng cao chất lượng tín dụng của toàn hệ thống, giúp ngân hàng có cơ sở đánh giá thống nhất và mang tính hệ thống trong suốt quá trình tìm hiểu về khách hàng, xem xét dự án đầu tư, đánh giá phân tích, thẩm định và ra quyết định cấp tín dụng, định giá khoản vay, hoàn thiện quy trình tín dụng và chính sách khách hàng, phục vụ quản lý tín dụng cấp chi nhánh và toàn ngành, phân loại nợ và trích lập dự phòng tín dụng, là một căn cứ khoa học, khách quan để các ngân hàng có cơ sở để gia tăng dư nợ tín dụng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Hoạt động kiểm tra kiểm soát được tăng cường
Nếu trước đây, trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, các NHTM Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào kết quả hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ của chính ngân hàng mình, còn các hoạt động giám sát từ các cơ quan bên ngoài chỉ dựa vào hoạt động thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước thì hiện nay, các NHTM Việt Nam đang có xu hướng thay đổi mô hình kiểm soát của mình, từ mô hình kiểm soát đơn sang mô hình kiểm soát kép, có sự tham gia giám sát của các cổ đông, các nhà đầu tư và giám sát của thị trường. Với mô hình kiểm soát kép này, các NHTM sẽ có cách đánh giá khách quan hơn về những rủi ro có thể xảy đến, từ đó kịp thời đưa ra những hạn biện pháp hạn chế sự phát sinh nợ xấu. Ngoài ra, cơ chế kiểm soát kép cũng đòi hỏi bản thân các NHTM phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, đảm bảo các báo cáo tài chính được minh bạch rõ ràng, tăng cường hiệu quả quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
2.4.2. Hạn chế
Thứ nhất, việc thực hiện theo các cơ chế chính sách do Nhà nước, NHNN và bản thân các NHTM ban hành tại hầu hết các NHTM chưa nghiêm túc và chưa thực sự linh hoạt, hiệu quả
Hầu hết các NHTM chưa có cơ chế áp dụng lãi suất tiền vay doanh nghiệp theo nguyên tắc thương mại và thị trường, lãi suất áp dụng đối với những khoản vay rủi ro cao hơn và những khoản vay ít rủi ro hơn là không khác nhau, tất cả đều theo một biểu lãi suất quy định chung cho toàn hệ thống của bản thân NHTM.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ hầu hết kiểm soát chứng từ có hợp lý và đầy đủ chưa dựa trên hồ sơ khoản vay đã được giải ngân chứ ít khi kiểm tra giám sát ngày từ khâu thẩm định của cán bộ tín dụng do đó hoạt động này chưa thực sự hiệu quả.
Thứ hai, Mô hình tổ chức, quy trình tín dụng, công tác phân tích tín dụng còn chồng chéo, phân tán và cồng kềnh
Các phòng tín dụng của nhiều ngân hàng vẫn còn duy trì mô hình tín dụng khá đơn giản. Cán bộ tín dụng tại phòng kế hoạch kinh doanh thẩm định cho vay cả doanh nghiệp và khách hàng cá nhân, cho vay dự án đầu tư, cán bộ tín dụng tại các phòng giao dịch cho vay khách hàng cá nhân theo địa bàn xã, do đó sự chuyên môn hóa trong thẩm định khách hàng không cao. Trong khi ở các ngân hàng hiện đại, hoạt động tín dụng được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng - sản phẩm sẽ đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, theo sát dòng tiền, nguồn vốn đầu tư,… sẽ tư vấn, giám sát, đồng hành cùng khách hàng, hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Chưa có bộ phận phụ trách rủi ro chuyên biệt để phân tích tình hình môi trường kinh doanh, đưa ra cảnh báo dấu hiệu rủi ro, tương lai ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, xây dựng giới hạn tín dụng đối với từng khách hàng, nhóm khách hàng, ngành kinh tế, khu vực và xử lý các khoản vay có vấn đề.
Nhu vậy, nếu tất cả các hoạt động trên thực hiện tại phòng kế hoạch kinh doanh được trưởng phòng phân cho từng phó phòng, cán bộ tín dụng đảm trách thì rõ ràng rằng có sự thiếu chuyên nghiệp trong mô hình. Tuy nhiên đây là vấn đề mang tính chất do hệ thống NHTM quy định.
Chất lượng của công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro chưa cao. Hệ thống thông tin của chi nhánh còn chưa cập nhật, thiếu sự trao đổi thông tín với các ngân hàng khác, với các chi nhánh trong cùng hệ thống.
Nguồn thông tin chính thống duy nhất hiện tại là dựa vào CIC - Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam của NHNN. Tuy nhiên, thông tin còn rất hạn
chế chỉ có số liệu về tình hình vay vốn, tài sản bảo đảm của khách hàng và cập nhật chưa nhanh, chưa chi tiết.
Thứ ba: Hệ thống phân loại và xếp hạng tín dụng chưa phản ánh đúng thực tế
Xếp loại khách hàng doanh nghiệp được chi nhánh triển khai theo đúng các văn bản quy định. Cụ thể, từng quý cán bộ tín dụng nhập báo cáo tài chính, thông tin doanh nghiệp vay, đánh giá các yếu tố liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để nhập vào hệ thống. Tuy nhiên, do tất cả các bước đều được cán bộ tín dụng thực hiện: từ thu thập thông tin đến nhập vào hệ thống cho nên nhiều thông tin còn mang tính chủ quan, chưa được kiểm định. Sau khi cán bộ tín dụng chấm điểm xếp loại trên hệ thống sẽ in kết quả cho phó phòng kế hoạch kinh doanh phụ trách phê duyệt kiểm tra và phê duyệt trên máy. Từ đó ta đã thấy sự bất cập ở cách kiểm tra, kiểm soát này. Do: một là, người kiểm soát không thể nắm rõ tình hình doanh nghiệp, biến động tất cả các ngành để kiểm soát. Hai là, người kiểm soát đồng thời kiêm nhiệm nhiều công việc khác không thể tập trung để tìm hiểu thông tin để kiểm tra. Ba là, người kiểm soát là thành viên trong cùng một phòng với cán bộ tín dụng do đó không thể tránh được tình trạng nể nang hoặc theo chỉ đạo chung của phòng.
Thứ tư: Công tác xử lý nợ xấu xét tổng thể vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Hầu hết các chi nhánh của các NHTM đã thành lập tổ xử lý nợ xấu. Xét theo thực tế hoạt động của các tổ thu nợ này thì hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân là do các thành viên trong tổ đều là những cán bộ tín dụng thẩm định cho vay và giải quyết nhiều công việc liên quan đến hoạt động tín dụng hàng ngày nên thời gian dành cho việc xử lý nợ xấu là rất ít, không thể chuyên tâm thực hiện công việc.
Hiện tại việc xử lý nợ xấu của chi nhánh chủ yếu sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, việc thu hồi nợ xấu do các tổ xử lý nợ xấu đến nay chưa phát huy hiệu quả, chưa có biện pháp quyết liệt, triệt để để thu hồi nợ. Các NHTM đã ban hành các văn bản hướng dẫn quy trình xử lý tài sản BĐTV nhưng thực tế triển khai còn chậm, việc kết hợp với các cơ quan chức năng để thu hồi nợ chưa thực sự tốt cho nên công việc chưa được xúc tiến nhanh chóng.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng (chẳng hạn như Agribank) đã quyết định khởi kiện ra tòa những khách hàng doanh nghiệp, công ty chây ỳ, không có thiện chí trả nợ. Mọi công tác cho công việc này được ban Giám đốc chỉ đạo quyết liệt, hoàn thiện đầy đủ hồ sơ, tìm người mua tài sản thanh lý,…. Chắc chắn những tháng cuối năm, chi nhánh sẽ đạt được những hiệu quả nhất định. Những món vay có dấu hiệu nợ xấu, ban Giám đốc cũng yêu cầu phòng kế hoạch kinh doanh, giám đốc các
phòng giao dịch tập trung hoàn thiện hồ sơ tín dụng, hồ sơ BĐTV chặt chẽ nhằm tránh những rủi ro pháp lý sẽ xảy ra trong trường hợp khởi kiện ra tòa.
2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế
Nợ xấu, nợ quá hạn gia tăng, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do điều kiện, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp găp nhiều khó khăn, gặp nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh cho nên làm ăn thua lỗ, gặp bất trắc trong kinh doanh dẫn đến khả năng thanh khoản của doanh nghiệp thấp và tất yếu ngân hàng gặp rủi ro.
Nguyên nhân khách quan
- Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng tới hầu khắp các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp đang vay vốn tại ngân hàng. Hàng hóa sản xuất tiêu thụ giảm sút, nguồn vốn thu hồi chậm khiến việc quay vòng nguồn vốn bị ngưng trệ.
- Do chính sách cắt giảm chi tiêu công của Chính phủ nhằm kìm chế lạm phát khiến các doanh nghiệp xây dựng gặp khó khăn lớn trong việc quay vòng nguồn vốn. Những công trình xây dựng từ nguồn vốn của Chính phủ không thu hồi được vốn sớm khiến các doanh nghiệp xây dựng không thể quay vòng tiếp tục cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Trong hoạt động cho vay đầu tư bất động sản bị ảnh hưởng “bong bóng” của tài sản thế chấp. Chiếm phần lớn trong danh mục tài sản thế chấp vay vốn của ngân hàng là bất động sản, giá nhà đất tăng cao, vượt cả giá trị thực của nó và thị trường bất động sản đóng băng, khả năng trả nợ của nhiều chủ đầu tư rơi vào khủng hoảng. Mặt khác, khi giá nhà đất giảm sau đợt sốt giá đất thì ngân hàng gặp một rủi ro là giá trị tài sản thế chấp lại cao hơn giá trị thực tế
- Tình trạng chạy đua lãi suất nóng sốt giữa các ngân hàng. Những doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất cao, họ có khả năng tìm kiếm những nguồn vốn khác và ngân hàng gặp khó khăn không giải ngân được rủi ro đọng vốn xuất hiện. Vấn đề đặt ra là những doanh nghiệp dám chấp nhận mức lãi suất cao, phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ sự thiếu vốn trầm trọng, năng lực tài chính hạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận với nguồn vốn khác và tất nhiên, nợ xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm đối tượng này. Mặt khác, trong cuộc chạy đua lãi suất Ngân hàng không thể tránh khỏi sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay. Cái vòng luẩn quẩn, lãi suất tăng, nợ xấu tăng.
Những con số phản ánh nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng như vậy là một vấn
đề đáng quan tâm, măc dù ngân hàng đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn nợ
xấu nhưng chưa thực sự hiệu quả, nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn khá cao. Nguy cơ rủi ro lớn chính thế đòi hỏi ngân hàng phải tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân chủ quan
- Thông tin, số liệu phục vụ công tác thẩm định, phê duyệt, cấp tín dụng chưa đầy đủ, thiếu chính xác hoặc không khách quan làm gia tăng nguy cơ đánh giá sai lệch về doanh nghiệp vay và hiệu quả của phương án, dự án. Thông tin CIC thì vẫn còn sơ lược, chưa được cập nhật nhanh chóng. Ngoài ra, việc thu thập những thông tin kinh tế xã hội cần thiết cho quá trình thẩm định còn hạn chế.
Hầu hết các NHTM chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu, đạt được những tiêu chuẩn quy định của Basel II là không dễ với các NHTM Việt Nam. “Theo các điều khoản và điều kiện về việc ứng dụng phương pháp tiếp cận dựa trên đánh giá nội bộ (IRB), Ủy ban Basel yêu cầu duy trì và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp vay của mình theo đặc điểm, các xếp hạng, quy trình quản lý, hạn mức tín nhiệm... Đặc biệt khi muốn sử dụng phương pháp IRB thì phải duy trì thông tin về xếp hạng tín nhiệm trong lịch sử của doanh nghiệp bao gồm điểm số, ngày xếp hạng phương pháp xếp hạng và các thông tin quan trọng được sử dụng cho việc xếp hạng, người chịu trách nhiệm xếp hạng”.
- Theo quy định thì các thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bắt buộc phải kiểm toán nên độ chính xác của các báo cáo tài chính không cao. Tóm lại, vấn đề về thông tin tại Việt Nam luôn rất khó khăn và là một tồn tại chưa thể khắc phục được trên thị trường tài chính Việt Nam.
- Việc định giá TSBĐ chưa chính xác so với giá trị thực của tài sản. Chưa kiểm tra chặt chẽ tình trạng, tình hình hoạt động của TSBĐ được hình thành tư vốn vay như các dự án đầu tư; việc cho vay bằng thế chấp hàng hóa vẫn chưa kiểm soát được số lượng hàng xuất kho và số lượng tồn do chưa có những bộ phận hỗ trợ bộ phận tín dụng;...
- Việc kiểm tra tín dụng chủ yếu mới dùng lại ở phát hiện và nêu trường hợp sai phạm. Chưa có cơ chế xử lý nghiệm cán bộ vi phạm nên các sai sót vẫn tái phạm, tính kỷ luật trong chấp hành quy định tín dụng chưa cao. Ngoài ra, trình độ cán bộ kiểm tra nhiều khi còn hạn chế dẫn đến tình trạng kiểm tra nhưng không phát hiện được sai phạm.
- Nợ xấu thì có xu hướng gia tăng nhưng khó có thể phân biệt được nợ xấu do cán bộ tín dụng đề nghị hay bị chỉ đạo phải cho vay theo chỉ thị của lãnh đạo. Đây là vấn đề mang tính hệ thống, do hầu hết các NHTM không xây dựng được hạn mức tín dụng với từng cán bộ lâu năm hay mới làm, cấp lãnh đạo phê duyệt, trách nhiệm với từng cấp trong từng khoản vay.
- Tổ thu hồi nợ xấu hoạt động không hiệu quả do các thành viên vừa là cán bộ tín dụng thực hiện các công việc hàng ngày, vừa là thành viên trong tổ thu hồi xử lý nợ xấu. Hầu hết các thành viên trong tổ đều là những cán bộ tín dụng có nợ xấu khiến công việc thu hồi nợ xấu hết sức khó khăn.
- Còn có những cán bộ tín dụng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay, thẩm định giá trị tài sản sản quá cao so với thực tế, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, nhận hối lộ của doanh nghiệp vay, bất chấp cho vay. Bên cạnh đó trình độ cán bộ tín dụng không đồng đều, một số cán bộ tín dụng không được đào tạo bài bản, thiếu kiến thức về lĩnh vực tín dụng, chỉ học hỏi kinh nghiệm của cán bộ đi trước với cách làm tín dụng truyền thống đã ăn sâu, không có sự sáng tạo đổi mới cho phù hợp với ngành ngân hàng hiện đại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Tại chương 2 Luận án khái quát về sự phát triển của các NHTM, hoạt động tín dụng, rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM Việt Nam. Đặc biệt, Luận án tập trung phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh, rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp của các NHTM Việt Nam. Trong đó, bằng các số liệu thông qua hệ thống bảng, sơ đồ, hình đã phân tích được tình hình nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu, nợ xấu có tài sản bảo đảm, nợ xấu không có tài sản bảo đảm, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, phân tích nội dung quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp qua 4 bước từ nhận biết rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp; đo lường và phân tích rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp; quản lý rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp và kiểm soát rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM. Đây là cơ sở đề xuất các định hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM tại Chương 4 của Luận án.