Các Yếu Tố Cấu Thành Thuế Tncn Đối Tượng Nộp Thuế Tncn

tăng về sức mua ròng của cá nhân đó trong một giai đoạn nhất định. Nói cách khác, đó là “tổng chi cho tiêu dùng” cộng với “sự gia tăng ròng về mức độ giàu có” của một cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định. Ở đây TNCN được gọi là “thu nhập toàn diện” và thường bao quát tất cả các loại hình thu nhập mà một cá nhân nhận được dưới nhiều hình thức khác nhau. Khái niệm này thể hiện được bản chất của thu nhập, đó là phần giá trị tăng thêm thực tế của từng cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định [50].

Từ những nhận định trên có thể thấy rằng, thu nhập của cá nhân có thể phát sinh từ rất nhiều nguồn khác nhau như: kinh doanh, tiền lương, đầu tư, chuyển nhượng, trúng thưởng, nhận quà biếu, nhận thừa kế... Tuy nhiên, không phải tất cả thu nhập từ các nguồn của cá nhân đều là thu nhập tính thuế, thu nhập tính thuế được xác định trên cơ sở thu nhập chịu thuế nhận được sau đó trừ đi những chi phí hợp lý và các khoản được giảm trừ. Ngoài ra, do nguồn phát sinh của TNCN rất đa dạng nên chủ thể nhận được thu nhập cũng vô cùng phong phú bao gồm: cá nhân kinh doanh; người lao động; các nhà đầu tư; người được nhận thừa kế, quà tặng; cá nhân trúng thưởng…

Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Liên và PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệu thì thuế TNCN được hiểu là sắc thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân phát sinh trong kỳ tính thuế [16, tr.221].

Trong cuốn Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tác giả Lê Văn Ái nhận định: Thuế TNCN là khoản thu bắt buộc đánh trên thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế theo quy định của pháp luật [17, tr.12].

Tác giả Huỳnh Văn Diện cho rằng thuế TNCN là một loại thuế đánh vào thu nhập của cá nhân do Nhà nước ban hành thành luật và được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh của Nhà nước” [11, tr. 33-34].

Theo quan điểm của nhóm tác giả Giáo trình Luật thuế Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần [34, tr.214].

Trong tất cả những quan điểm, nhận định nêu trên, tác giả đồng ý với quan điểm của các nhà khoa học pháp lý đưa ra trong Giáo trình Luật thuế Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, bởi nó chỉ rõ đặc điểm thuế TNCN là thuế trực thu, đối tượng nộp thuế TNCN là ai, đối tượng phải chịu loại thuế này là gì và trong những kì tính thuế nào. Có thể thấy, nhận định về thuế TNCN này tương đối ngắn gọn, cụ thể nhưng vẫn có sự bao quát và đề cập đầy đủ các nội dung có liên quan.

Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần.

Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân

- Thuế TNCN là loại thuế trực thu, vì có đối tượng nộp thuế đồng thời là đối tượng chịu thuế. Tâm lý người dân ít bị tác động đối với khoản thuế mình phải chịu nếu đó là các loại thuế gián thu khác, bởi nó đã được tính sẵn trong giá thanh toán các loại hình sản phẩm, dịch vụ (như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt...). Còn thuế trực thu thường tạo ra phản ứng mạnh mẽ trong cộng đồng nếu có sự thay đổi về chính sách thuế suất, phạm vi đối tượng được miễn giảm; bởi thuế TNCN được trừ trực tiếp từ thu nhập từ tiền lương, tiền công theo tháng hoặc từng lần phát sinh thu nhập của mỗi cá nhân. Phản ứng như thế nào phụ thuộc vào ý thức của các đối tượng nộp thuế và cơ cấu nền kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, diện đánh thuế được xác định dựa trên căn cứ nguồn gốc phát sinh của khoản thu nhập và đặc điểm cư trú của cá nhân. Thứ nhất, thu nhập chịu thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, không bao gồm thu nhập miễn thuế. Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm cả cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú.

- Thuế TNCN thường là loại thuế có tính lũy tiến vì nó đóng vai trò trực tiếp đảm bảo công bằng xã hội. Các quốc gia thường xây dựng một biểu thuế luỹ tiến có nhiều bậc, mỗi bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì mức thuế suất biên càng cao. Càng là những người có thu nhập cao thì càng phải đóng góp nhiều hơn so với những người có mức thu nhập thấp. Điều này làm giảm dần mâu thuẫn và áp lực mất ổn định của đa số người nghèo, người có thu nhập thấp.

Quản lý thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn - 3

- Thuế TNCN luôn gắn liền với chính sách xã hội của mỗi quốc gia [34, tr.214], là công cụ điều tiết thu nhập dân cư. Việc điều tiết thu nhập được tiến hành thông qua những quy định của pháp luật về mức thuế suất, các khoản thu nhập chịu thuế, bậc tính thuế... Từ đó, có căn cứ xác định nghĩa vụ nộp thuế của mỗi cá nhân.

1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thuế TNCN Đối tượng nộp thuế TNCN

Yếu tố này là cơ sở để xác định rõ cá nhân nào có nghĩa vụ phải kê khai và nộp thuế TNCN theo quy định của pháp luật. Đối tượng nộp thuế TNCN theo quy định là thể nhân hoặc pháp nhân có trách nhiệm nộp thuế TNCN cho Nhà nước. Nhiều trường hợp người có trách nhiệm nộp thuế chính là người chịu thuế, nhưng cũng có trường hợp NNT không phải là người chịu thuế, ví dụ như trường hợp cá nhân, cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ và nộp thay cho người chịu thuế khi được ủy quyền. Gắn liền với yếu tố NNT là đặc điểm cư trú. Cá nhân cư trú nộp thuế đối với thu nhập toàn cầu còn cá nhân không cư trú nộp thuế trên thu nhập có nguồn gốc phát sinh tại quốc gia, vùng lãnh thổ sở tại.

Thu nhập chịu thuế TNCN

Thu nhập chịu thuế TNCN là tổng số các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập chịu thuế khác có tính chất tiền lương, tiền công mà cơ quan chi trả cho cá nhân (bao gồm cả các khoản tiền lương, tiền công nhận được do làm việc tại khu kinh tế). Không bao gồm: tiền ăn giữa ca, tiền ăn trưa; tiền phụ cấp điện thoại, phụ cấp trang phục; tiền công tác phí; thu nhập từ phần tiền lương, tiền công làm việc ban đêm, làm thêm giờ.

Các khoản giảm trừ đối với cá nhân cư trú

Giảm trừ gia cảnh bao gồm giảm trừ bản thân và giảm trừ người phụ thuộc, là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú [25, Điều 19].

Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học đóng góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa; đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học [36, Điều 20]

Giảm trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc.

Mức thuế suất TNCN

Đây là yếu tố quan trọng nhất của mỗi một sắc thuế, nó phản ánh chính sách điều chỉnh kinh tế - xã hội của Nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của mỗi NNT. Việc xác định thuế suất trong một loại thuế vừa phải hướng đến coi trọng lợi ích quốc gia, vừa cần chú ý đến lợi ích chính đáng của NNT. Thuế TNCN có các loại mức thuế, thuế suất sau đây:

- Mức thuế cụ thể (tuyệt đối) được ấn định bằng một mức tuyệt đối dựa trên cơ sở thuế.

- Thuế suất nhất định là thuế suất được xác định bằng tỷ lệ phần trăm cụ thể trên thu nhập chịu thuế, không bị thay đổi theo quy mô của thu nhập chịu thuế. Ví dụ, thuế suất thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phân phối, cung cấp hàng hóa là 0,5% trên thu nhập chịu thuế; đối với cá nhân kinh doanh hoạt động cho thuê tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp là 5% trên thu nhập chịu thuế…

- Biểu thuế suất lũy tiến là bảng tổng hợp các thuế suất hoặc mức thuế nhất định trong một sắc thuế. Thuế suất lũy tiến là thuế suất tăng dần theo sự tăng lên của phần thu nhập tính thuế, gồm thuế suất lũy tiến từng phần và thuế suất lũy tiến toàn phần, cụ thể như sau:

+ Biểu thuế lũy tiến từng phần là biểu thuế gồm nhiều bậc, ứng với mỗi bậc là một mức thuế suất tương ứng, thuế suất tăng dần theo từng bậc thuế. Thuế được tính từng phần theo bậc thuế và mức thuế suất tương ứng của từng bậc, số thuế phải nộp là tổng số thuế tính cho từng bậc. Theo Luật thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung, biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tiền lương, tiền công.

+ Biểu thuế lũy tiến toàn phần cũng là biểu thuế gồm nhiều bậc với mỗi mức tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế được áp dụng một mức thuế suất chung tương ứng. Khác với biểu thuế lũy tiến từng phần, số thuế phải nộp được

tính bằng cách lấy toàn bộ thu nhập tính thuế để áp dụng vào mức thuế suất tương ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn phần cho phép xác định số thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng.

- Thuế suất luỹ thoái: là loại thuế suất có tính chất ngược lại với thuế suất luỹ tiến, tức là mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở đánh thuế lại tăng dần. Đây là loại thuế suất không được áp dụng phổ biến.

Chính sách miễn, giảm thuế TNCN

Miễn, giảm thuế được áp dụng với những trường hợp ngoại lệ nên thường được viết thành một chương hoặc những điều luật riêng biệt. Trong đó quy định cụ thể những khoản thu nhập được loại trừ nghĩa vụ nộp thuế và các trường hợp đối tượng nộp thuế được giảm bớt số tiền thuế TNCN phải nộp so với thông thường (vì các lý do khách quan dẫn đến việc nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo). Ngoài ra còn bao gồm cả các quy định về điều kiện, thủ tục, hồ sơ xét miễn, giảm thuế TNCN.

1.1.2. Khái niệm quản lý thuế TNCN

Quản lý thuế là một nội dung của quản lý nhà nước về kinh tế và cũng là một nhánh quan trọng của quản lý tài chính công.

Theo nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý trong Giáo trình Quản lý thuế của Học viện Tài chính thì quản lý thuế là việc tổ chức thực thi pháp luật thuế của nhà nước, tức là, quản lý thuế được hiểu là hoạt động tác động và điều hành của nhà nước đối với hoạt động thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT [17, tr.8].

Trong Giáo trình Quản lý chi tiêu công do tác giả Dương Thị Bình Minh chủ biên thì quản lý thuế lại là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu NSNN thực hiện. Đặt ra thuế là đặc quyền thuộc Nhà nước. Lập kế hoạch thu, tổ chức thu thuế, kiểm tra, thanh tra và xử phạt thuế đương nhiên là những nghiệp vụ nội hàm đặc quyền đó [23, tr.139].

Theo cuốn tài liệu về Chiến lược Quản lý thuế của Tổng Cục thuế Latvia: Quản lý thuế là một hệ thống những quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục tiêu đảm bảo thu thuế đúng, đủ và công bằng trên cơ sở quy định của pháp luật

thuế, bao gồm các hoạt động thu nhận hồ sơ khai thuế, tính toán số thuế phải nộp, đôn đốc thu nộp thuế và cung ứng dịch vụ tư vấn cho NNT [17, tr.8].

Tác giả Nguyễn Thị Mai Dung đưa ra nhận định quản lý thuế trong Luận án Tiến sĩ Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác động của cơ quan quản lý thuế từ trung ương tới địa phương đến NNT nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế, phát huy vai trò của thuế [12, tr.28].

Trên cơ sở những nghiên cứu, nhận định trên có thể nhận thấy rằng: Quản lý thuế là sự tác động có chủ đích của Nhà nước đến quá trình tổ chức quản lý thuế của cơ quan thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế và ổn định nguồn thu cho NSNN.

Như vậy, quản lý thuế TNCN được hiểu là sự tác động có chủ đích đến quá trình tổ chức quản lý thuế TNCN của CQT và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế TNCN của mỗi đối tượng nộp thuế nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật thuế TNCN, phát triển nguồn thu cho NSNN.

1.1.3. Mục tiêu của hoạt động quản lý thuế TNCN

1.1.3.1. Hoạt động quản lý thuế TNCN góp phần tăng nguồn thu cho NSNN để phát triển đất nước và đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững

Nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người dần tăng lên mà trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, nhu cầu chi tiêu ngân sách phục vụ các vấn đề an ninh – quốc phòng, an sinh xã hội, điều hành đất nước… ngày một nhiều hơn. Bên cạnh đó là hàng loạt các loại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do yêu cầu tự do hóa thương mại dần được miễn giảm để thu hút nguồn lợi kinh tế từ nước ngoài, nên không thể phủ nhận rằng thuế TNCN là một nguồn thu quan trọng đối với NSNN ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Vì thế, công tác quản lý thuế TNCN giúp Nhà nước ổn định nguồn thu, tránh thất thoát cho ngân sách và đảm bảo nền tài chính vững mạnh.

1.1.3.2. Hoạt động quản lý thuế TNCN nhằm đảm bảo việc thực hiện thuế TNCN một cách nghiêm minh

Vì thuế TNCN là loại thuế trực thu, điều tiết vào thu nhập của các cá nhân

nên rất dễ tác động đến phản ứng của NNT hoặc làm phát sinh tình trạng trốn thuế, lậu thuế nếu mức thuế suất họ phải chịu quá cao. Bên cạnh đó, thuế TNCN là sắc thuế có diện đánh thuế rộng và phân tán cho nên việc theo dõi, tính và thu thuế trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. Nếu không có biện pháp hiệu quả, phù hợp thì hoạt động quản lý thuế TNCN của Nhà nước không thể đảm bảo được tính nghiêm chỉnh, chính xác và đúng pháp luật.

1.1.3.3. Hoạt động quản lý thuế TNCN góp phần tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của người dân và tạo điều kiện cho NNT thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế

Để nâng cao tính chủ động, tự giác của NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế thì Luật Quản lý thuế đã được Nhà nước xây dựng và ban hành nhằm quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm hỗ trợ cũng như giám sát, ngăn chặn hành vi vi phạm của CQT, song song với đó NNT có cần phải tự giác tuân thủ các quy định, phối hợp với cơ quan chức năng xuyên suốt quy trình quản lý. Để hệ thống quy định trên đạt hiệu quả thì không thể không nhắc đến việc đưa pháp luật vào thực tiễn thông qua hoạt động quản lý thuế TNCN. Nhờ có hoạt động quản lý thuế mà cơ quan thuế vừa có thể giúp đỡ NNT trong quá trình thực hiện thủ tục thuế, vừa có cơ chế giám sát, kiểm soát NNT nhằm giảm thiểu vi phạm; từ đó, nâng cao đáng kể ý thức chấp hành pháp luật của người dân, khuyến khích họ tự giác thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước.

1.1.3.4. Hoạt động quản lý thuế TNCN góp phần kiểm soát thu nhập của các cá nhân và hạn chế tham nhũng

Hiện nay, tham nhũng là một “căn bệnh” của xã hội, không phân biệt khu vực công hay tư. Hành vi tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước không khác gì khu vực công, thậm chí thủ đoạn ngày một tinh vi và kín kẽ hơn trước. Đồng thời, do chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của các đối tượng khác trong xã hội nên việc dịch chuyển tài sản nhằm tránh sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền phòng, chống tham nhũng cũng gây khó khăn cho việc xác định tính trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập. Bởi vì, trong thực tiễn những tài sản có giá trị lớn do tham nhũng mà có của người có chức vụ, quyền hạn thường được đứng tên người thân

thích hoặc những người khác có quan hệ thân thiết với họ [27]. Vì vậy, việc tăng cường công tác quản lý thuế TNCN là biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm kiểm soát được thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn kể cả trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu ban hành pháp luật về thuế tài sản theo thông lệ quốc tế, đây là loại thuế sớm muộn nên được ban hành nhằm bổ sung cho thuế TNCN để hạn chế tham nhũng, vì thu nhập thì có thể dễ để che giấu nhưng tài sản thì không [24, tr.25].

1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thuế TNCN

1.1.4.1. Yếu tố cơ chế, chính sách pháp luật của nhà nước về quản lý thuế TNCN

Hoạt động quản lý thuế TNCN có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc trực tiếp vào hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý thuế TNCN. Từ khi Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện và kiện toàn hệ thống cơ chế, chính sách quản lý thuế TNCN sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế tùy từng giai đoạn.

Cơ chế, chính sách pháp luật là một hình thức thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị. Quan điểm của giai cấp này tác động trực tiếp đến việc xây dựng cơ chế, chính sách thuế; những cơ chế, chính sách đó lại tiếp tục không tạo ảnh hưởng đến quá trình thực hiện công tác quản lý thuế. Mỗi chính sách ra đời ứng với quan điểm khác nhau sẽ tạo ra luồng tác động khác nhau đến các hoạt động quản lý hành chính. Một hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật hoàn chỉnh, chặt chẽ, có tính đồng bộ cao, phù hợp, dễ thực hiện sẽ tăng tính hiệu quả của hoạt động quản lý thuế TNCN trong thực tiễn. Vì nó là căn cứ để NNT thực hiện nghĩa vụ, bên cạnh đó, cũng là cơ sở để cơ quan thuế tiến hành quy trình quản lý, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong trường hợp cần thiết. Trái lại, hệ thống cơ chế, chính sách bao gồm những nội dung quá phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn; đồng thời, quy định không rõ ràng, nhất quán mà thủ tục hành chính lại rườm rà sẽ gây khó khăn cho cả cơ quan quản lý thuế và NNT sẽ làm tăng chi phí hành chính, lãng phí thời gian, giảm hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/03/2024