Pháp Luật Quản Lý Thuế Đối Với Việc Kiểm Tra Thuế, Thanh Tra Thuế Và Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Về Thuế Tncn

luật riêng biệt nhằm mục đích nhân đạo, hướng tới hỗ trợ đời sống nhân dân, giảm bớt khó khăn cho NNT. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, việc miễn, giảm thuế là biện pháp ưu đãi, khuyến khích phát triển sản xuất trong nước khi các rào cản thuế quan bị bãi bỏ. Tuy nhiên, thực hiện việc miễn, giảm thuế cũng có tính hai mặt, nó chứa đựng những yếu tố tích cực, tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước nhưng cũng chứa đựng các yếu tố tiêu cực, có thể làm méo mó những ý tưởng ban đầu khi thiết lập chính sách thuế, không phù hợp với những tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại.

Về giảm trừ gia cảnh

Hầu hết các nước đều có quy định về giảm trừ gia cảnh, biểu hiện rõ nét nhất của tính công bằng theo chiều ngang trong điều tiết thu nhập. Cùng thu nhập như nhau nhưng người có hoàn cảnh khó khăn hơn (ví dụ có nhiều người phải nuôi dưỡng, bị tàn tật...) cần được giảm trừ nhiều hơn người có điều kiện thuận lợi. Kinh nghiệm rút ra từ các nước trên thế giới có thể theo 2 cách: giảm trừ cá nhân và giảm trừ tiêu chuẩn. Là một nước đang phát triển, Việt Nam lựa chọn áp dụng hình thức giảm trừ tiêu chuẩn để đảm bảo việc tính toán được đơn giản nhất căn cứ vào cơ cấu thu nhập và chi tiêu của dân cư. Pháp luật quy định mức giảm trừ gia cảnh khoán bằng một số tiền nhất định với mỗi đối tượng nộp thuế và từng người phụ thuộc.

1.2.3.6. Pháp luật quản lý thuế đối với việc kiểm tra thuế, thanh tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN

Về thanh tra, kiếm tra thuế TNCN

Pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế là bộ phận quan trọng của pháp luật quản lý thuế. Trong tổng thể công tác quản lý thu thuế TNCN thì việc thanh tra, kiểm tra thuế TNCN là vô cùng quan trọng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế TNCN được hiểu là hoạt động giám sát của CQT đối với các giao dịch liên quan đến nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ thuế, tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của mỗi cá nhân. Thanh tra, kiểm tra thuế TNCN nhằm mục đích đánh giá tính đầy đủ, chính xác, trung thực của các chứng từ, hồ sơ mà NNT đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan quản lý thuế; đồng thời, đánh giá mức

độ tuân thủ pháp luật về thuế của NNT và cả của công chức thuế, phát hiện những hành vi vi phạm. Từ đó, đảm bảo việc thực thi pháp luật thuế TNCN đạt hiệu quả, ngăn chặn hành vi trái pháp luật của các đối tượng nộp thuế TNCN.

Về xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN

Xử lý vi phạm về thuế là một khâu trong quy trình quản lý thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng. Xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN có thể được hiểu là việc chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng các chế tài xử lý phù hợp với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật thuế TNCN căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành. Mọi hành vi vi phạm pháp luật thuế đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm khắc. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà mỗi NNT sẽ bị áp dụng những cách thức xử phạt khác nhau để đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện một cách triệt để, công bằng.

1.2.3.7. Pháp luật quản lý thuế đối với việc cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế TNCN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính là khâu cuối cùng trong quy trình quản lý thuế nói chung và quy trình quản lý thuế TNCN nói riêng, thể hiện quyền lực của nhà nước qua cơ chế cưỡng chế thi hành và bắt buộc tuân thủ. Các biện pháp cưỡng chế hành chính về thuế được áp dụng đối với những hành vi chưa đến mức bị xử lý bằng biện pháp hình sự, trong trường hợp đã bị truy tố về tội trốn thuế thì không bị áp dụng cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế nữa, việc truy thu số tiền trốn thuế sẽ do tòa án quyết định trong bản án. Nếu cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế kịp thời và xử lý đúng đối tượng, sẽ giúp đảm bảo được nguồn thu ổn định vào NSNN.

1.2.3.8. Pháp luật quản lý thuế về ứng dụng CNTT trong quản lý thuế TNCN

Quản lý thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn - 5

Trong khi số lượng NNT ngày càng nhiều, nguồn phát sinh thu nhập chịu thuế đa dạng mà đội ngũ nhân lực của ngành chỉ có hạn thì việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý thuế TNCN trong những năm gần đây đã thể hiện rõ ưu điểm của nó. Nhờ việc ứng dụng rộng rãi dịch vụ điện tử trong tất cả các khâu nên thủ tục hành chính thuế đã được đơn giản hóa hơn trước rất nhiều, giảm thiểu chi phí

không cần thiết cho NNT, tối ưu hóa quy trình quản lý. Hiện nay, NNT có thể truy cập vào Cổng dịch vụ công quốc gia để thực hiện thủ tục nộp thuế điện tử và tiến hành đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế. Ngoài ra, ngành thuế cũng triển khai Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) hỗ trợ 63 cục thuế và các chi cục thuế trong công tác quản lý. Tuy nhiên, việc quản lý nguồn dữ liệu có dung lượng lớn cũng là thách thức đối với ngành thuế khi các chính sách pháp luật thay đổi liên tục mà việc nâng cấp ứng dụng tương đối mất thời gian.

1.2.4. Pháp luật về quản lý thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm với Việt Nam

1.2.4.1. Pháp luật về quản lý thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới

Trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà nội dung các quy định về pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế TNCN nói riêng ở mỗi quốc gia lại có sự khác biệt thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Về quản lý đối tượng nộp thuế TNCN

Thuế TNCN của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay xác định đối tượng nộp thuế TNCN dựa trên hai nguyên tắc sau đây:

- Nguyên tắc đánh thuế theo cư trú (hay gọi tắt là nguyên tắc cư trú): Một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc quy định đối tượng cư trú là người có nhà ở hoặc có thời gian cư trú từ một năm trở lên, đối tượng không cư trú chỉ có mặt ở nước sở tại dưới một năm. Còn các nước như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia… quy định chung đối tượng cư trú là những người có thời gian sinh sống ở nước sở tại từ 182 hoặc 183 ngày trở lên trong năm tính thuế hoặc 12 tháng liên tục, nếu không thỏa mãn điều kiện trên thì không được coi là cá nhân cư trú [20, tr.20].

- Nguyên tắc đánh thuế theo nguồn phát sinh thu nhập: Công dân cư trú phải chịu thuế với thu nhập phát sinh ở nước sở tại và thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài, trong khi đó cá nhân không cư trú chỉ phải nộp thuế TNCN đối với các khoản thu nhập phát sinh ở nước sở tại. Riêng Hồng Kông quy định cả cá nhân cư trú và không cư trú đều chỉ phải chịu thuế với các khoản thu nhập phát sinh tại Hồng

Kông, do ở đây thu hút nhiều người nước ngoài đến làm việc, đầu tư trong khi công dân trong nước thường ít khi xuất ngoại để làm ăn, sinh sống [20, tr.21].

Về xác định thu nhập chịu thuế TNCN

Đa số các nước đều xác định thu nhập chịu thuế và phân loại chúng theo nguồn hình thành: Thu nhập từ lao động; từ sản xuất kinh doanh; thu nhập từ tài sản như cho thuê, chuyển nhượng tài sản, thừa kế, quà tặng, quà biếu; thu nhập từ đầu tư gián tiếp như tiền lãi, cổ tức, thu nhập được chia từ các hoạt động góp vốn; thu nhập khác... [1, tr.74]

Có hai cách xác định thu nhập chịu thuế gồm: thu nhập đã nhận (thu nhập gộp) hay thu nhập đã nhận được trừ một số khoản chi phí tạo ra thu nhập (thu nhập ròng).

- Xác định thu nhập chịu thuế trên thu nhập gộp: Trường hợp này thu nhập tính thuế là toàn bộ số tiền mà NNT đã nhận, không phân biệt đã bỏ ra ít hay nhiều chi phí để tạo ra thu nhập tính thuế. Cách này đơn giản nhưng không đảm bảo được sự công bằng. Trước đây, nước ta đã áp dụng phương pháp xác định này trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao [20, tr.21].

- Xác định thu nhập chịu thuế trên thu nhập ròng: Hầu hết các nước hiện nay (Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Thái Lan,...) đều xác định thu nhập chịu thuế là tổng thu nhập trừ đi tổng các khoản được giảm trừ của đối tượng đó trong kỳ tính thuế, không bao gồm các khoản được miễn thuế. Tổng các khoản được giảm trừ là tổng chi phí phát sinh trong kỳ tính thuế và các khoản được phép trừ khác theo quy định như bảo hiểm bắt buộc, giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế... [20, tr.22]

Về chính sách miễn, giảm thuế TNCN

Tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, tình hình chính trị của từng quốc gia mà chính sách miễn, giảm thuế ở mỗi nước là khác nhau. Chính sách này gắn liền với chế độ an sinh xã hội, thể hiện tính nhân đạo, giúp người dân giảm bớt gánh nặng về thuế. Vì chính sách miễn giảm thuế ảnh hưởng trực tiếp đến số thu vào NSNN của mỗi quốc gia cho nên để xác đúng đối tượng được miễn, giảm các nước thường phải quy định chặt chẽ các điều kiện kèm theo và công khai đầy đủ quy trình, thủ tục xin xét miễn, giảm thuế thu nhập.

Phạm vi các khoản thu nhập được miễn thuế cũng có sự khác biệt giữa các nước. Ngoài việc cho phép miễn thuế đối với những khoản thu nhập cơ bản, Trung Quốc còn cho phép miễn thuế đối với trợ cấp thôi việc đối với người lao động hay trợ cấp xuất ngũ đối với quân nhân, trợ cấp định cư đối với cán bộ, công chức nhà nước… Ngoài ra, một số quốc gia còn có quy định thêm những khoản thu nhập được miễn thuế có tính chất đặc thù để thu hút đầu tư tùy thuộc vào định hướng chính sách của mỗi nước, ví dụ cho phép miễn thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn (Nam Phi, Argentina), thu nhập từ các chương trình tiết kiệm nhà ở dài hạn, thu nhập của hộ gia đình sản xuất nông nghiệp trong phạm vi nhất định được miễn thuế (Hàn Quốc) [45].

Về các khoản giảm trừ gia cảnh

- Giảm trừ cho cá nhân NNT: Đây là khoản được loại trừ ra khỏi thu nhập tính thuế, không xem xét đến “hành vi” sử dụng thu nhập của cá nhân NNT. Lý do áp dụng khoản giảm trừ chung xuất phát từ lập luận cho rằng mỗi cá nhân cần phải có một mức thu nhập nhất định nhằm đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.

- Giảm trừ cho người phụ thuộc: Áp dụng cho những người mà đối tượng nộp thuế phải nuôi dưỡng; tuy nhiên, phạm vi người phụ thuộc của các nước có sự khác biệt và được xác định dựa trên các tiêu chí khác nhau. Cụ thể, mức giảm trừ quy định cho người phụ thuộc ở một số nước thấp hơn so với mức giảm trừ cho cá nhân NNT giống với Việt Nam, trong khi đó Anh, Mỹ lại quy định mức giảm trừ cá nhân cho NNT tương đương với người phụ thuộc. Ngoài ra, nhiều nước khống chế số lượng người phụ thuộc được tính giảm trừ gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia nhưng có nước không khống chế như Mỹ, Anh. Hay như Trung Quốc không quy định riêng mức giảm trừ cho người phụ thuộc và cho cá nhân NNT mà quy định một mức chung [1, tr.56].

- Các khoản giảm trừ có tính chất đặc thù: Đây là khoản giảm trừ mà đối tượng nộp thuế được hưởng khi đáp ứng được một số tiêu chí nhất định, ví dụ chi tiêu cho các khoản mục mà nhà nước khuyến khích như y tế, giáo dục… Khi xây dựng khoản giảm trừ đặc thù, các nước đều khống chế mức tối đa cho từng loại

giảm trừ và muốn được hưởng các khoản giảm trừ này NNT phải xuất trình được các chứng từ liên quan.

Về đăng ký thuế TNCN

Nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Singapore, Thái Lan, Mỹ, Anh, Pháp đã thay đổi quan điểm về vị trí NNT trong hệ thống thuế để đảm bảo nguồn thu cho NSNN, tạo tâm lý tốt cho NNT thu nhập cá nhân. Từ quan niệm NNT trong hệ thống quản lý thuế là đối tượng bị quản lý sang vị trí khách hàng, đồng thời chuyển từ mô hình Nhà nước quản lý sang Nhà nước phục vụ [20, tr.55]. Chiến lược này thực sự có hiệu quả, tạo động lực cho NNT hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước cho nên Việt Nam đang từng bước học hỏi và áp dụng quan điểm này nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế TNCN.

Về kê khai thuế TNCN

Hiện nay trên thế giới có hai cách quản lý kê khai thuế TNCN như sau:

- Kê khai toàn bộ được áp dụng ở Úc, Canada, Mỹ và Singapore… Theo đó, cá nhân có thu nhập đạt tới một mức nào đó (mức tối thiểu – gọi là ngưỡng kê khai) mới phải nộp tờ khai thuế. Nguyên tắc này dùng cho cả những cá nhân có thu nhập duy nhất từ tiền lương do người sử dụng lao động trả [32], [33].

- Kê khai hạn chế được áp dụng ở Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Anh… Cụ thể, nhiều cá nhân không phải nộp tờ khai thuế mà bị đánh thuế từ việc khấu trừ tại nguồn thông qua hệ thống khấu trừ tiền lương nhằm làm giảm sức ép từ yêu cầu kê khai đối với các cá nhân có nhiều nguồn thu nhập [31].

Về kiểm tra, thanh tra NNT

Nhìn chung, Luật Quản lý thuế các quốc gia đều quy định: thẩm quyền của CQT; các nội dung về thanh tra, kiểm tra thuế; trách nhiệm cung cấp sổ sách, tài liệu có liên quan của NNT và bên thứ ba phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế… để đảm bảo minh bạch, hiệu quả trong công tác quản lý.

Bên cạnh các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế thì một số nước sử dụng thêm tài liệu, công cụ hỗ trợ khác nhằm nâng cao chất lượng quản lý:

Sổ tay nghiệp vụ thanh tra thuế được phát hành và tái bản nhiều lần tại Hà

Lan, trở thành công cụ đắc lực cho CQT hoàn thành nhiệm vụ [13]. Sổ tay hỗ trợ, hướng dẫn các đơn vị thuộc quyền quản lý của CQT xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm với một phương án khả thi nhất về cách thức, biện pháp, thời gian điều tra căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ hàng năm và năng lực của CQT. Bên cạnh đó, Sổ tay đưa ra những quy định về tổ chức nhân sự và một số điều cấm; phải giữ lời hứa và các cam kết, không đánh mất sự tin tưởng của NNT.

Tại Australia, pháp luật quy định hệ thống thuế được quản lý công khai và cân đối giữa chức năng giáo dục và cưỡng chế. Các ngành có độ rủi ro cao khi sử dụng biện pháp thanh toán tiền mặt sẽ phải chịu nhiều đợt thanh tra, kiểm tra. Đặc biệt là loại hình kinh doanh dịch vụ khách sạn, câu lạc bộ, xây dựng, bán lẻ phương tiện gắn máy, vải và dệt [32]. Quy định kết hợp công tác hỗ trợ NNT tự giác khai nộp thuế, một số lĩnh vực cụ thể đã được CQT đặt trọng tâm kiểm tra theo từng phân khúc thị trường, mỗi nhóm NNT sẽ có các biện pháp, kỹ năng nghiệp vụ trọng tâm tương ứng. Sử dụng chương trình tuân thủ đối với các doanh nghiệp lớn giúp CQT dự báo được số thu, xác định và xử lý những rủi ro lớn về thuế.

1.2.4.2. Kinh nghiệm với Việt Nam

Mặc dù nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng trình độ quản lý ở nước ta chỉ mới đạt mức trung bình so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Vì thế cần liên tục học hỏi tiếp thu tinh hoa từ kinh nghiệm quốc tế về quản lý thuế TNCN, trên cơ sở đó tiến hành chọn lọc những nội dung đơn giản, phù hợp, khả thi, dễ áp dụng với đại đa số NNT. Mỗi quy định được ban hành đều có sự tác động nhất định đến công tác quản lý thuế cho nên các nhà làm luật vẫn cần phải cân nhắc cẩn thận, kỹ lưỡng nếu có ý định thay đổi theo xu thế chung.

Nước ta nên học hỏi phương pháp quản lý thuế trực thu theo hướng ổn định, cảnh báo kịp thời biến động và gia tăng đều nguồn thu NSNN trong bối cảnh số thu từ thuế gián thu đang được điều chỉnh giảm dần như hiện nay. Đồng thời đẩy mạnh áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro vào toàn bộ quy trình quản lý thuế TNCN để có thể giám sát, kiểm soát hiệu quả những đối tượng có mức độ rủi ro cao.

Tiếp cận xu hướng quan điểm coi NNT là khách hàng chứ không phải đối

tượng bị quản lý để khuyến khích NNT tự nguyện tuân thủ quy định về thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN. Cơ chế này hoạt động dựa trên tính tự giác, đề cao sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế giúp CQT giảm bớt gánh nặng trong công tác quản lý.

Pháp luật Việt Nam hiện nay xác định mức giảm trừ căn cứ vào cơ cấu thu nhập, chi tiêu của dân cư, trên cơ sở đó khoán từng khoản giảm trừ phù hợp áp dụng với mỗi đối tượng. Bài học từ kinh nghiệm quản lý thuế TNCN về giảm trừ gia cảnh là muốn xác định chính xác người phụ thuộc thì phải có sự kết hợp, trao đổi thông tin thường xuyên với cơ quan có chức năng quản lý về hộ tịch, bảo hiểm xã hội.

Việt Nam nên áp dụng phương pháp kê khai hạn chế để loại bỏ yêu cầu phải nộp tờ khai thuế đối với tất cả các đối tượng chịu thuế. Thay vì phải xử lý số lượng lớn tờ khai thuế gây tốn kém nguồn lực thì kê khai hạn chế giúp CQT tập trung nguồn lực quản lý vào việc kiểm soát những đối tượng có rủi ro cao như các cơ sở kinh doanh nhỏ, cá nhân hành nghề tự do, đối tượng có nhiều nguồn thu nhập… nhờ đó giảm thiểu một phần chi phí tuân thủ với những đối tượng này.

Trong giai đoạn hội nhập sâu rộng như hiện nay, việc nỗ lực điều chỉnh, hoàn thiện chính sách pháp luật theo các nguyên tắc, chuẩn mực của pháp luật quốc tế mà vẫn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước là cần thiết để đảm bảo có đủ cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế đã kí kết. Một hệ thống pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế TNCN nói riêng có chất lượng tốt sẽ tạo ra sức hút hấp dẫn nguồn vốn đầu tư và lao động có trình độ cao từ nước ngoài.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí