Những Vấn Đề Chung Về Quản Lý Thu Bảo Hiểm Xã Hội


huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và công tác quản lý thu BHXH tại các cơ quan BHXH tại Việt Nam nói chung.

1.2. Những vấn đề chung về quản lý thu bảo hiểm xã hội

1.2.1. Thu bảo hiểm xã hội

1.2.1.1. Khái niệm

* Bảo hiểm xã hội

Cuộc sống con người luôn phấn đấu cho an sinh hạnh phúc, nhưng quy luật của tạo hoá là sinh ra, lớn lên và già yếu; đi theo đó là những rủi ro, ốm đau, hoạn nạn có thể đến bất cứ lúc nào. Với trí óc thiên phú, con người luôn có những phát kiến khoa học cả về tự nhiên và xã hội để chế ngự thiên nhiên, khắc phục những diễn biến bất thường của quy luật, làm cho xã hội không ngừng phát triển. BHXH như là một phát kiến văn minh của nhân loại về khoa học xã hội kết hợp với khoa học tự nhiên để giữ gìn, bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ cho con người.

Thực tế cuộc sống có nhiều rủi ro xảy ra mà không thể phòng trước được, để khắc phục hậu quả của nó thì mỗi cá nhân có thể dự phòng ở những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của từng người. Nhưng, dù cá nhân có chủ động và dự phòng những rủi ro khi xảy ra thì cũng không thể nào đáp ứng được mọi rủi ro xảy ra trong cuộc sống của mỗi người. Vì vậy, cần phải có biện pháp khắc phục tổng thể và lâu dài mang tính cộng đồng xã hội, do đó ngoài dự phòng cá nhân, còn cần có dự phòng của cộng đồng.

Trong tất cả các biện pháp phòng chống và khắc phục rủi ro, bảo hiểm là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, chia nhỏ rủi ro, tổn thất của một người hay một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng xảy ra rủi ro, tổn thất nào đó, theo những nguyên tắc, chuẩn mực được thống nhất và quy định trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia. Bảo hiểm không những đảm bảo cho người tham gia về kinh tế mà còn góp phần ổn


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

định xã hội.

Trên thế giới, BHXH ra đời cách đây hàng trăm năm và trở thành giải pháp hữu hiệu giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống và trong quá trình lao động. BHXH trở thành nền tảng cơ bản của hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển.

Quản lý thu bảo hiểm xã hội tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên - 3

Để đảm bảo quyền lợi cơ bản cho người lao động trên toàn thế giới và an toàn xã hội, ILO ban hành Công ước số 102 ngày 04/6/1952 về quy phạm tối thiểu an toàn xã hội, có quy định 09 chế độ trợ cấp gồm: chế độ chăm sóc y tế; chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN; chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp thất nghiệp; chế độ trợ cấp tàn tật; chế độ trợ cấp tuổi già; chế độ trợ cấp tiền tuất và chế độ trợ cấp gia đình.

Ở nước ta, quan điểm của Đảng và Nhà nước về BHXH đã được thể hiện trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Điều 32 Hiến pháp 1959 quy định: "người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để đảm bảo cho mọi người được hưởng quyền đó".

Khái niệm về BHXH được khái quát một cách cao nhất, đầy đủ nhất khi có Luật BHXH, đó là: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của nguời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo biểm xã hội" [5].

Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.

Như vậy có thể khái quát về BHXH như sau: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần cho người lao động, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm,


chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động và những người ruột thịt (bố, mẹ, vợ/chồng, con) của người lao động trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

* Thu Bảo hiểm xã hội

Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động BHXH.

1.2.1.2 . Yêu cầu đối với thu bảo hiểm xã hội tại địa bàn cấp huyện Thứ nhất: Thu đúng, đủ, kịp thời

- Thu đúng là đúng đối tượng, đúng mức, đúng tiền lương, tiền công và đúng thời gian quy định. Mọi người lao động khi có hợp đồng lao động hoặc giao kết lao động theo quy định, được trả công bằng tiền đều là đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc xác định đúng đối tượng, đúng tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của người lao động là cơ sở quan trọng để đảm bảo thu đúng, việc thu đúng còn phụ thuộc vào tính chất hoạt động của đơn vị sử dụng lao động để xác định đúng đối tượng, mức thu, phương thức thu.

- Thu đủ, là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số tiền phải đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động.

- Thu kịp thời, là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động, tiền công, tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia BHXH. Chế độ BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh tế- xã hội từng thời kỳ, ở mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH. Chế độ BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát


triển kinh tế xã hội từng thời kỳ, ở mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH của người sử dụng lao động và người lao động đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng tiền thu, không bỏ sót lao động tham gia BHXH.

Thứ hai: Tập trung, thống nhất, công bằng, công khai.

Cơ chế thu BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung quản lý, điều tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam. Việc tham gia BHXH của người lao động, người sử dụng lao động đảm bảo công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh tế. Các đơn vị tham gia BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải đóng BHXH và số tiền đóng theo quy định, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị - xã hội. Tính công bằng được thể hiện trong việc thu nộp BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tức là đều có tỷ lệ phần trăm thu BHXH như nhau.

Thứ ba: An toàn, hiệu quả

Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của Nhà nước và sử dụng nguồn đúng mục đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích cộng đồng, nên thường có khối lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng, cần được đầu tư tăng trưởng, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu BHXH về mặt giá trị do các yếu tố trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý nghiêm ngặt về thu BHXH để tránh lạm dụng, thất thoát; đồng thời nghiên cứu các lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu hồi được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng nguồn thu.

1.2.2. Quản lý thu bảo hiểm xã hội tại địa bàn cấp huyện

1.2.2.1. Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội

Trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lý. Quản lý là những hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng quản lý nhất định để điều chỉnh các quá trình xã


hội và hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lý ở đây có công tác thu BHXH, thu BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính, một khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính BHXH. Công tác thu BHXH tham gia vào quá trình giảm quỹ BHXH, quỹ tài chính này nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lý thu BHXH là việc sử dụng việc thu BHXH như một công cụ quản lý xã hội của Nhà nước. Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lý thu BHXH là quản lý đối tượng tham gia, quản lý mức đóng, căn cứ đóng và phương thức đóng của các đối tượng khi tham gia BHXH với mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời luôn đặt lên hàng đầu.

Quản lý thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp.

Cũng như các tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội khác, tổ chức BHXH muốn tồn tại và phát triển thì phải có một tài chính riêng để chi dùng cho công tác thực hiện chính sách, chế độ. Do đó, thu BHXH là nhân tố có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của BHXH ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới.

Thu BHXH là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động BHXH.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy hiệu quả thu BHXH nói chung và thu BHXH đối với hình thức bắt buộc nói riêng thường đạt được kết quả không cao. Trong nền kinh tế nhiều thành phần như Việt Nam hiện nay, lợi


ích của các bên tham gia BHXH là khác nhau. Đơn vị sử dụng lao động thì luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí. Trong khi đó, người lao động thì lại muốn đóng góp ít nhất mà lại được hưởng nhiều nhất. Quỹ BHXH là có hạn, để đảm bảo cho mọi hoạt động được bền vững, cơ quan BHXH phải luôn tiến hành cân đối quỹ sao cho hợp lý nhất. Chính những mâu thuẫn về lợi ích trên và có thể đảm bảo lợi ích hợp pháp cùng như trách nhiệm của các bên tham gia cần phải có người trọng tài là Nhà nước. Với chức năng cai trị, Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực của mình xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu và quản lý thu BHXH.

Như vậy, quản lý thu BHXH là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản lý để điều chỉnh các hoạt động thu. Sự tác động đó được thực hiện bằng hệ thống các biện pháp hành chính, kinh tế và pháp luật nhằm đạt được mục tiêu thu đúng đối tượng, thu đủ số lượng và không để thất thu thu tiền đóng BHXH, đảm bảo thời gian theo quy định.

1.2.2.2. Những quy phạm pháp luật về thu và quản lý thu bảo hiểm xã hội

* Những quy phạm pháp luật chủ yếu điều chỉnh công tác thu BHXH

Thực hiện Nghị quyết đại hội VII và hiến pháp năm 1992, ngày 23/6/1994 Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội thông qua trong đó giành cả chương XII để quy định về BHXH và có quy định “Loại hình tham gia BHXH áp dụng đối với doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên, ở những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng BHXH theo quy định…” [6]; “Người lao động làm việc ở những nơi sử dụng lao động dưới 10 lao động hoặc làm những công việc có thời hạn dưới 3 tháng, theo mùa vụ hoặc làm các công việc tạm thời khác, thì các khoản BHXH được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả để người lao động tham gia BHXHtheo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm” [7].

Ngày 26/1/1995, Chính phủ ban hành điều lệ BHXH kèm theo Nghị


định số 12 CP, trong đó quy định rõ về đối tượng tham gia BHXH và tỷ lệ thu BHXH như: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên thuộc đối tượng phải áp dụng các chế độ BHXH theo quy định. Với tỷ lệ thu BHXH là 20%, trong đó người sự dụng lao động 15% tổng quỹ tiền lương, người lao động 5% tiền lương tháng. Theo đó, Bộ Tài chính có Thông tư số 58/TT-BTC hướng dẫn quy định tạm thời về tài chính BHXH, trong đó quy định cụ thể về đối tượng, quy trình quản lý thu BHXH.

Mặt khác, để phù hợp với tình hình kinh tế phát triển của đất nước Chính phủ tiếp tục quy định đối tượng lao động hợp tác có thời hạn ở nước ngoài theo quy định tại nghị định số 152/2000/NĐ-CP; Các chức danh thuộc xã, phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 09/2008/NĐ-CP ngày 03/01/1998; người lao động làm việc tại các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao theo quy định tại Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1 999…

Ngày 09/01/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP đã quy định đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc được mở rộng đến các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tô hợp tác; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 03 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã và các ngành sự nghiệp khác; các tổ chức khác có sử dụng lao động [8].

Ngày 29/6/2006 Quốc hội khóa 11 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật BHXH.

Đặc biệt, ngày 20/11/2014, Quốc hộc khóa 13 nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật BHXH. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản và hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh về quản lý thu, nộp BHXH trong hoạt động BHXH Việt Nam.


* Quy định về công tác quản lý thu BHXH của BHXH Việt Nam

Trên cơ sở các văn bản nêu trên, ngay sau khi được thành lập và bước vào hoạt động, với thẩm quyền của mình BHXH Việt Nam đã ban hành các văn bản hướng dẫn việc thực hiện quản lý, theo dõi quá trình thu nộp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động nhằm thực hiện có hiệu quả việc quản lý hành chính theo chức năng và nhiệm vụ được giao, cụ thể như: Công văn số 211/BHXH ngày 26/9/1 995 quy định tạm thời về quản lý thu chi BHXH; Đến năm 1996, BHXH Việt Nam ban hành tiếp Quyết định số 177/BHXH ngày 30/12/1996 quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam; Do yêu cầu công tác quản lý thu BHXH, BHXH Việt Nam ban hành tiếp Quyết định số 2902/1999/QĐ-BHXH ngày 23/11 /1999 về việc ban hành quy định quản lý thu BHXH, trong đó quy định cụ thể về đối tượng, phương pháp, quy trình và quản lý tài chính thu BHXH. Ngoài ra, để phù hợp với việc chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam và công tác quản lý thực hiện thu BHXH, BHYT, BHXH Việt Nam có công văn hướng dẫn số 251/BHXH-QLT quy định chi tiết về công tác quản lý thu BHXH, BHXH. Mặt khác, để phù hợp với đối tượng của Nghị định số 01 /2003/NĐ- CP nêu trên và khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý thu BHXH thời gian trước, BHXH Việt Nam ban hành Quyết định số 722/QĐ-BHXHBT ngày 26/5/2003 về việc quy định quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc. Sau khi có Luật BHXH năm 2006 BHXH Việt Nam đã kịp thời ban hành quyết định 902/QĐ-BHXH ngày 26/6/2007 quy định về quản lý thu BHXH; Quyết định 1333/QĐ-BHXH ngày 21/02/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 902/QĐ-BHXH; Công văn 1615/BHXH-CSXH ngày 02/6/2009 của BHXH Việt Nam hướng dẫn thực hiện thu - chi Bảo hiểm thất nghiệp trong đó có hệ thống mẫu biểu sửa đổi của thu BHXH bắt buộc.

Đối với người lao động để theo dõi, ghi nhận quá trình làm việc có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/08/2023