Các Quy Định Về Các Biện Pháp Quản Lý Tài Sản Phá Sản

gồm thù lao và chi phí khác theo quy định tại Điều 21, Nghị định 22/2015/NĐ-CP. Theo đó, phương thức tính thù lao Quản tài viên có thể theo ba hình thức: theo giờ làm việc, theo mức thù lao trọn gói, theo mức thù lao tính theo tỷ lệ % tổng giá trị tài sản doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản thu được sau khi thanh lý. Tuy nhiên, các quy định cũng chưa rõ ràng trong cách xác định thù lao của Quản tài viên, chẳng hạn như đối với cách tính theo giờ làm việc thì mức tính thù lao mỗi giờ là bao nhiêu. Nếu tính theo mức thù lao trọn gói thì cá nhân, tổ chức nào xác định mức trọn gói này, sự thỏa thuận ra sao cũng chưa được quy định cụ thể. Cách tính thù lao Quản tài viên cũng chưa được quy định theo từng giai đoạn của thủ tục tuyên bố phá sản. Mặc dù Nghị định số 22/2015/NĐ-CP có quy định trong trường hợp tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết phá sản theo quy định tại Điều 86, Luật Phá sản 2014 thì thẩm phán và Quản tài viên thỏa thuận mức thù lao, nhưng cũng không đề cập đến trường hợp nếu không đạt được thỏa thuận thì giải quyết như thế nào. Hoặc như trong trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có đề xuất chỉ định Quản tài viên thì sẽ thỏa thuận với ai về chi phí. Có thể nói, cách xác định, chi trả chi phí Quản tài viên như hiện nay là chưa phù hợp, chưa tương xứng với thời gian, công sức mà Quản tài viên bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ.

Đặc biệt, trong một số trường hợp, Quản tài viên hoàn toàn có thể không được hưởng bất cứ một khoản tiền thù lao nào, ví dụ như trường hợp Quản tài viên thực hiện nghĩa vụ bù trừ và thanh toán nợ có tài sản bảo đảm. Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định chi phí Quản tài viên được thanh toán từ giá trị tài sản thu được sau khi thanh lý. Vấn đề đặt ra là nếu sau khi thực hiện nghĩa vụ bù trừ mà doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản không còn tài sản thì ai thanh toán chi phí Quản tài viên. Tương tự như vậy, nếu trường hợp sau khi thực hiện thanh toán nợ có bảo đảm bằng toàn bộ tài sản bảo đảm mà doanh nghiệp không còn tài sản thì ai thanh toán chi phí Quản tài viên. Quản tài viên tham gia làm việc và chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nghĩa

vụ bù trừ, trong quá trình Tòa án quyết định cho thanh toán nợ có bảo đảm bằng tài sản bảo đảm nên mất nhiều thời gian, công sức, thậm chí phải định giá tài sản để làm cơ sở cân đối nghĩa vụ bù trừ, thanh toán nợ thế nhưng trong trường hợp này Quản tài viên sẽ không được thanh toán thù lao, chi phí. Thứ năm, năng ực hoạt động của quản tài vi n/doanh nghiệp quản , thanh tài sản còn nhiều hạn chế do điều kiện hành nghề, quản , đăng k quản tài vi n còn tương đối dễ dàng, thiếu các ti u chuẩn hành nghề, đạo đức

nghề nghiệp.

Theo pháp luật hiện hành, điều kiện hành nghề của Quản tài viên còn khá dễ dàng và chưa chặt chẽ để ràng buộc về yếu tố kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn có liên quan đến hoạt động quản lý tài sản phá sản dành cho các đối tượng là Kiểm toán viên và Luật sư. Mặc dù việc bổ nhiệm những Quản tài viên có xuất thân từ Kiểm toán viên và Luật sư xuất phát từ việc hai nghề này có nhiều điểm rất gần với nghề Quản tài viên, tuy nhiên, việc không quy định về thời gian kinh nghiệm dành cho hai đối tượng này khiến cho việc trở thành Quản tài viên tương đối khá dễ dàng, có khả năng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lý tài sản phá sản. Bên cạnh đó, việc mở rộng thêm đối tượng là những người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo cũng làm cho con đường trở thành Quản tài viên tương đối dễ dàng.

Về năng lực thực tế, từ khi Luật Phá sản 2014 có hiệu lực từ năm 2015 đến nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức được hơn 12 lớp tập huấn, bồi dưỡng quản tài viên với hơn 650 lượt người tham dự. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, trình độ năng lực của một số người tiến hành thủ tục phá sản còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác giải quyết phá sản doanh nghiệp nói chung; thiếu sự am hiểu sâu sắc về nội dung Luật Phá sản và các lĩnh vực chuyên ngành khác như tài chính, ngân hàng, quản lý kinh tế, kế toán thống nhất và các ngành luật khác.

Về quản lý đội ngũ Quản tài viên, Luật Phá sản 2014 và Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định tòa án là cơ quan trực tiếp chỉ định, thay đổi, giám sát hoạt động, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Trong khi đó, việc cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề quản tài viên, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hoạt động hành nghề quản lý, thanh lý tài sản được giao cho Bộ Tư pháp thực hiện. Điều này gây ra sự thiếu thống nhất và khó khăn trong thực tiễn quản lý, giám sát hoạt động của quản tài viên cũng như việc đề xuất, triển khai các cơ chế, biện pháp hỗ trợ hoạt động hành nghề đối với đối tượng này.

Việc thiếu một bộ quy tắc ứng xử cho Quản tài viên cũng là một điều gây khó khăn cho hoạt động của Quản tài viên nói chung và trong giai đoạn quản lý tài sản phá sản nói riêng. Với vị trí trung tâm trong thủ tục phá sản, quản tài viên sẽ phải đảm bảo được vai trò chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, hiện nay các vấn đề này chưa được quy định trong pháp luật. Quản tài viên cũng đòi hỏi phải được loại trừ khỏi các nguy cơ vi phạm các chuẩn mức đạo đức và nguyên tắc cơ bản trong hành nghề như các nguyên tắc xung đột lợi ích, nguyên tắc độc lập khách quan, nguyên tắc bảo mật thông tin. Đó đều là những nội dung hiện nay pháp luật đang bỏ ngỏ.

3.2.2.3. Chủ nợ

Có thể nói, chủ nợ là chủ thể được hướng tới của quá trình quản lý tài sản phá sản. Muốn thu hồi được nợ thì chủ nợ phải quản lý tài sản của con nợ hết sức chặt chẽ. Theo quy định của pháp luật, chủ nợ cũng được tham gia gián tiếp vào quá trình quản lý tài sản phá sản, cụ thể như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.

Thứ nhất, chủ nợ có quyền chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 26 Luật Phá sản 2014). Theo đó, khi yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ có quyền đề xuất chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Thứ hai, chủ nợ có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ để được thông báo cho Hội nghị chủ nợ về tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; kết quả kiểm kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ (Điều 81 Luật Phá sản 2014).

Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay - 15

Thứ ba, chủ nợ có quyền đề nghị Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản quyết định kiểm toán doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đề nghị áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, đề nghị thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; tham gia vào việc quản lý, thanh lý tài sản theo yêu cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 18 Luật Phá sản 2014).

Có thể thấy, quyền của chủ nợ liên quan đến hoạt động quản lý tài sản phá sản đã được thu hẹp. Nếu trước kia, trong số các chủ nợ, sẽ có một chủ nợ được bầu để tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, nhưng theo Luật Phá sản 2014 quyền quản lý tài sản được giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, mặc dù các chủ nợ vẫn có thể tham gia quản lý tài sản phá sản nếu được yêu cầu.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ là mục tiêu hướng tới của các biện pháp quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tuy nhiên, trong thực tiễn không hiếm trường hợp chủ nợ đã lợi dụng một số quyền của mình để tạo áp lực thanh toán khoản nợ lên doanh nghiệp.

+ Tình trạng ạm dụng quyền y u cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ:

Luật Phá sản năm 2014 đã đồng hóa khái niệm khả năng thanh toán với khái niệm thực tế thanh toán, đồng hóa việc không thanh toán khoản nợ quá hạn 3 tháng trở lên (bất kể lý do gì) với việc mất khả năng thanh toán, và theo quy định tại Khoản 2 Điều 42 Luật Phá sản, Thẩm phán phải ra quyết định mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.Từ quy định nói trên của Luật Phá sản, đã dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu mở thủ tục

phá sản của các chủ thể là chủ nợ của doanh nghiệp, phản ứng gay gắt của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và sự không thống nhất quan điểm giải quyết giữa Tòa án các cấp trong việc ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp bị yêu cầu.

Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án, việc các doanh nghiệp có khoản nợ quá hạn 3 tháng trở lên xảy ra rất phổ biến. Việc không thanh toán các khoản nợ quá hạn này có nhiều nguyên nhân, trong đó có trường hợp xuất phát từ tình trạng khó khăn, mất cân đối tài chính của doanh nghiệp mắc nợ, nhưng cũng có trường hợp do các bên có tranh chấp về chính khoản nợ đó hoặc vấn đề khác có liên quan, hoặc cũng có thể do doanh nghiệp mắc nợ cố tình không chịu thanh toán nợ nhằm mục đích chiếm dụng vốn của chủ nợ, mặc dù họ có đủ tài sản, đủ khả năng để thanh toán nợ.

Với các trường hợp có tranh chấp hoặc cố tình chiếm dụng vốn như trên, lẽ ra các khoản nợ quá hạn cần phải được giải quyết theo con đường tố tụng dân sự và thi hành án dân sự mà khởi đầu bằng đơn khởi kiện vụ án dân sự thì nay theo quy định của Luật Phá sản, nhiều chủ nợ không sử dụng con đường tố tụng dân sự hoặc thi hành án dân sự (đối với các trường hợp đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án) mà lại nộp đơn đến Tòa án yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ. Tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản như trên là vì quy định “đơn giản hóa” khái niệm mất khả năng thanh toán của Luật Phá sản nêu trên và các chủ nợ biết rằng các doanh nghiệp mắc nợ thường rất ngại việc bị Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản (nếu các doanh nghiệp này vẫn còn muốn tiếp tục hoạt động) hơn là việc bị kiện hoặc bị yêu cầu thi hành án một vụ án dân sự. Nói cách khác, các chủ nợ của doanh nghiệp muốn sử dụng quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản theo Luật Phá sản như là một biện pháp đe dọa doanh nghiệp mắc nợ nhằm mục đích đòi nợ một cách nhanh chóng hơn là mong muốn tuyên bố phá sản thực sự đối với doanh nghiệp mắc nợ.

+ Vấn đề tiếp cận thông tin của các chủ nợ ở nước ngoài:

Trường hợp những chủ nợ tại nước ngoài của doanh nghiệp vì lý do địa lý xa xôi, khó khăn để tiếp cận thông tin và một số lý do khác không do lỗi của chủ nợ, dẫn đến việc chủ nợ không được biết về việc phá sản của doanh nghiệp để gửi giấy đòi nợ, thì pháp luật hiện tại chưa có quy định các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho những chủ nợ này. Về việc đăng báo quyết định mở thủ tục phá sản, chỉ được đăng trên 02 số báo địa phương nơi doanh nghiệp đăng ký trụ sở là chưa hợp lý bởi chủ nợ của doanh nghiệp có thể ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam nên cần phải đăng trên báo Trung ương.

3.2.2.4. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

Mặc dù, quyền quản lý tài sản phá sản được giao cho Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có các quyền như quyền của chủ nợ, ngoài ra doanh nghiệp mật khả năng thanh toán còn có các quyền sau đây:

- Doanh nghiệp có quyền tiếp tục hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 47 Luật Phá sản 2014)

- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có nghĩa vụ báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện các hoạt động như hoạt động liên quan đến việc vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản; bán, chuyển đổi cổ phần; chuyển quyền sở hữu tài sản; chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực; thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản; trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã. Các hoạt động nói trên nếu không có sự đồng ý của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì bị đình chỉ thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu và giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật (Điều 49 Luật Phá sản 2014).

- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp không được phép thực hiện các hoạt động như cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản; thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã; từ bỏ quyền đòi nợ; chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 48 Luật Phá sản 2014).

Ngoài ra, trong quá trình tham gia quản lý tài sản phá sản, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán còn có quyền đề nghị Thẩm phán, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ mà tự mình không thể thực hiện được hoặc trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá tài sản; đề nghị Thẩm phán quyết định kiểm toán doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; đề nghị Thẩm phán triệu tập người làm chứng; tham gia Hội nghị chủ nợ; đề nghị thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; đề nghị Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bổ sung chủ nợ, người mắc nợ vào danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; đề xuất với Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về việc thu hồi các khoản tiền, tài sản của người mắc nợ; tham gia vào việc quản lý, thanh lý tài sản theo yêu cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 18, Luật Phá sản 2014).

Doanh nghiệp bị các chủ nợ yêu cầu mở thủ tục phá sản nên các doanh nghiệp này không hợp tác, không cung cấp tài liệu như danh sách chủ nợ, con nợ, tài sản…dẫn đến quản tài viên cũng không thể thực hiện được việc lên danh sách chủ nợ, con nợ, danh sách tài sản doanh nghiệp, dẫn đến vụ án cũng gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục quy định. Doanh nghiệp bị chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhưng khi triệu tập, xác minh tại địa phương, doanh nghiệp không còn hoạt động, đại diện theo pháp luật hiện ở đâu không

rõ, không thể tống đạt được. Tuy nhiên xác minh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư có kết quả doanh nghiệp vẫn chưa đăng ký giải thể, cần hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp này.

3.2.3. Các quy định về các biện pháp quản lý tài sản phá sản

3.2.3.1. Kiểm kê tài sản phá sản; lập danh sách chủ nợ, con nợ

Quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trước hết cần phải quy định về việc kiểm kê tài sản, danh sách chủ nợ, con nợ của doanh nghiệp. Mục tiêu điều chỉnh của các quy định này là nhằm nhanh chóng, kịp thời thống kê và nắm được số liệu và tình hình về các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.

a) Kiểm tài sản

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 65 Luật Phá sản 2014, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Như vậy, tổng thời gian cho việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp tối đa không quá 90 ngày.

Luật Kế toán 2015 (Điều 40) kiểm kê tài sản là “việc cân đong đo đếm số lượng; xác nhận và đánh giá chất lượng giá trị của tài sản nguồn vốn hiện có tại thời điểm iểm để iểm tra đối chiếu với số liệu trong sổ ế toán”. Theo quy định của pháp luật kế toán, doanh nghiệp phải thực hiện kiểm kê tài sản một cách thường xuyên, thông thường là vào cuối kỳ kế toán năm hoặc trong một số trường hợp bất thường như chia, tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển đổi loại hình, hình thức sở hữu…Như vậy, theo pháp luật kế toán, kiểm kê tài sản không chỉ là thống kê về mặt số lượng mà còn phải xác định được cả về giá trị của tài sản. Nguyên tắc của hoạt động kiểm kê tài sản là phải phản ánh

Xem tất cả 214 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí