các nước áp dụng rất hiệu quả mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân hay mô hình quản lý theo giá cả và cơ chế thị trường bằng một doanh nghiệp đặc biệt.
b./ Về nghiệp vụ quản lý và công cụ quản lý.
Hệ thống chính sách chế độ quản lý TSNN là trụ sở làm việc còn thiếu, chưa thống nhất, chưa đồng bộ; các chính sách, chế độ đã ban hành thì còn nhiều bất cập và hiệu lực thi hành chưa cao; trong khi đó có nhiều cơ quan hành chính sử dụng lãng phí quỹ đất và nhà, công suất và công năng của trụ sở làm việc không được sử dụng tốt nhất. Đặc biệt chưa có sự gắn kết giữa TSNN là trụ sở với kinh phí NSNN cấp thường xuyên hay đầu tư mới gắn với hiệu quả sử dụng, khai thác. Những tồn tại này được biểu hiện cụ thể như sau:
1 - Về văn bản: Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật về quản lý TSNN là trụ sở làm việc nói riêng và TSNN nói chung tính đến hết năm 2008 còn thấp (văn bản pháp luật cao nhất về quản lý TSNN dưới hình thức Nghị định do Chính phủ ban hành), vẫn duy trì quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp, nhất là cơ chế đầu tư xây dựng, sửa chữa trụ sở làm việc; do đó dẫn tới việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật chưa nghiêm. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quản lý trụ sở làm việc tại khu vực hành chính chưa quy định cụ thể, đầy đủ các chế tài xử phạt hành chính, chế tài xử lý trách nhiệm vật chất của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị khi để xảy ra những sai phạm trong việc đầu tư xây dựng mới, sửa chữa, nâng cấp, quản lý trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính; một số chế tài không có tính pháp lý cao, chỉ dưới hình thức văn bản dưới luật hoặc các biện pháp chỉ đạo cụ thể mang tính chất tình huống trong quá trình quản lý nên việc thực hiện chưa nghiêm. Thực tế xã hội đang trông chờ những điểm mới và giá trị pháp lý cao nhất của Luật quản lý sử dụng TSNN 2008, nhưng dù sao thì công tác hướng dẫn thực hiện vẫn căn cứ vào những gì đang thực hiện hoặc triển khai trước đó.
2 - Việc xây dựng chế độ quản lý TSNN là trụ sở làm việc; tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc còn chậm và chưa thực sự gắn với thực tế. Về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc đã bộc lộ những bất cập, chưa phù hợp với thực tế; cụ thể là: thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước, các địa phương hiện đã, đang triển khai thực hiện cơ chế "một cửa, một dấu" đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Để thực hiện các công việc này, mỗi cơ quan cần được bố trí một số phòng tiếp khách, phòng họp, tiếp dân, phòng kho lưu trữ hồ sơ...
Mặc dù tại Quyết định số 260/2006/QĐ-TTg về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc quy định đối với các trụ sở làm việc xây dựng mới diện tích các bộ phận phục vụ và phụ trợ, công cộng và kỹ thuật được tính tối đa bằng 50% tổng diện tích làm việc được xác định theo biên chế được duyệt và tiêu chuẩn, định mức cho mỗi chỗ làm việc chưa linh hoạt, có nơi thừa, nhưng có nơi thiếu. Mỗi cơ quan đơn vị của nhà đề xây dựng những phòng họp rất bề thế khi xây dựng công sở nhưng hiệu suất sử dụng và công năng có tận dụng tốt nhất không? Điều này gây lãng phí không ít tiền ngân sách cho đầu tư, bên cạnh đó, tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc chỉ phù hợp với nhu cầu hiện tại không đáp ứng được nhu cầu phát triển tương lai của các cơ quan, đơn vị; đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng...Tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc cấp xã, phường, thị trấn chưa phù hợp với quy mô hoạt động của các xã, phường, thị trấn của các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc không kịp thời sửa đổi đồng bộ với các chế độ khác như chế độ phụ cấp trách nhiệm của các chức danh theo chế độ lương mới...
3 - Chưa có hệ thống đòn bẩy nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách: Chính sách xử lý, sắp xếp lại trụ sở làm việc tại khu vực hành chính nhằm rút ra quỹ nhà đất dôi dư để kiến nghị bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất tạo vốn đầu tư xây dựng mới, cải tạo trụ sở chỉ mới được thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số Bộ, ngành, địa phương như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Lào Cai, Hòa Bình, Cần Thơ, Hậu Giang. Qua thực tế triển khai thực hiện xử lý, sắp xếp lại nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 80/2001/QĐ-TTg ngày 24/5/2001 và Quyết định 09/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã minh chứng cho một hướng đi, chủ trương đúng để khai thác nguồn lực từ quỹ nhà, đất của các cơ quan hành chính. Tuy nhiên chính sách này gặp không ít khó khăn khi thực hiện thống nhất trên cả nước, không có tiêu thức định lượng đánh giá hiệu quả công sở nhà nước nên chưa có tác dụng khuyến khích các cơ quan hành chính sử dụng trụ sở làm việc có hiệu quả và tiết kiệm.
4 - Những chính sách chế độ về quản lý TSNN là trụ sở làm việc tại khu vực hành chính bước đầu Chính phủ đã phân cấp cho các Bộ, ngành địa phương được tự quyết định đầu tư, xây dựng, quản lý, thanh, xử lý. Tuy nhiên việc phân cấp vẫn còn bất cập; cụ thể là:
Có thể bạn quan tâm!
- / Quản Lý Tiêu Chuẩn Định Mức Sử Dụng Trụ Sở Làm Việc.
- / Quản Lý Đầu Tư Xây Mới, Cải Tạo, Mở Rộng, Bảo Dưỡng Trụ Sở Làm Việc.
- / Sắp Xếp Lại, Xử Lý Trụ Sở Làm Việc.
- / Đổi Mới Mô Hình Quản Lý Trụ Sở Làm Việc Của Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước.
- / Kiện Toàn Bộ Máy Cơ Quan Quản Lý Tsnn (Bao Gồm Trụ Sở Làm Việc) Các Cấp.
- / Khảo Sát Kinh Nghiệm Nước Ngoài Và Hợp Tác Quốc Tế Trong Quản Lý Tài Sản Công Là Trụ Sở Làm Việc.
Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.
+ Phân cấp nhưng chưa đảm bảo quản lý thống nhất, còn biểu hiện phân tán, cục bộ; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; chưa chú trọng đến việc thanh tra, kiểm tra, chấp hành chế độ thống kê, báo cáo đối với những việc đã phân cấp. (Thực tế nhiều nới không báo cáo sau khi đưa vào sử dụng)
+ Chưa xác định rõ trụ sở làm việc do Chính phủ quản lý, trụ sở làm việc của chính quyền địa phương các cấp nên thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về trụ sở làm việc chưa được xác định cụ thể dẫn tới chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; nhưng lại có những trụ sở làm việc chưa có cơ quan, đơn vị quản lý làm thất thoát TSNN; cụ thể như: trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính thuộc trung ương quản lý nhưng khuôn viên đất thì quyền quyết định chủ yếu lại thuộc địa phương.
+ Các quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, xử lý trụ sở làm việc tại khu vực hành chính còn tập trung về Trung ương, xin phép Trung ương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng các Bộ, ngành, chưa nâng cao tính tự chủ, chủ động. Trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng, cải tạo, sửa chữa, xử lý trụ sở làm việc còn rất nhiều thủ tục hành chính, chưa đơn giản thuận tiện cho việc thực hiện điều chuyển, thanh lý tài sản. Thanh lý trụ sở làm việc với bất cứ công trình dù to, nhỏ (nhà làm việc, nhà để xe hay công trình phụ...); việc thanh lý để đầu tư (dự án đầu tư đã được duyệt) hay thanh lý để giải phóng mặt bằng tạo cảnh quan cho khuôn viên... đều thuộc thâm quyền của Bộ Tài chính, hay xin phép cấp trên.
5 - Một số chính sách chế độ quan trọng chưa được ban hành, ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương hiện đại hóa trụ sở làm việc của Đảng và Nhà nước:
+ Chưa có quy hoạch tổng thế hệ thống trụ sở làm việc cơ quan hành chính nhà nước các cấp trên toàn quốc gắn với quy hoạch, định hướng về biên chế. Việc đầu tư xây dựng trụ sở làm việc tại khu vực hành chính hiện nay căn cứ chủ yếu vào quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị. Hiện nay có một số tỉnh tự làm quy hoạch khu hành chính riêng nhưng kết quả đang là môt ẩn số vì quy luật “Mở rộng nhà nước” trong quản lý là thách thức cho 5-10 năm sau khi đi vào sử dụng, trong khi nhà cấp I có thời gian khấu hao sử dụng lên đến 80 năm.
+ Về thiết kế kiến trúc công trình: Hiện nay có quy định chung thiết kế điển hình về hình thức kiến trúc công trình và dây chuyền công năng đối với trụ sở làm việc cơ quan hành chính nhưng cũng chưa cụ thể rõ ràng, dẫn đến tình trạng nhiều trụ sở
mới được xây dựng không thể hiện được tính chất công trình hoặc dây chuyền công năng không đáp ứng được thực tế vận hành chức năng quản lý hành chính nhà nước.
6- Thiếu hẳn một đội ngũ nhân lực lành nghề và hệ thống máy móc phần mềm quản lý hiệu quả. Thực trạng tổ chức của cơ quan quản lý tài sản công cho thấy đội ngũ nhân lực rất mỏng, không đồng đều về trình độ, ở cấp địa phương, và các bộ có mọt đội ngũ nhân lực rất hạn chế về mọi mặt. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý trụ sở làm việc nói riêng và tài sản công nói chung. Việc thiếu hẳn một hệ thóng thông tin, thiết bị và phần mềm quản lý đã dân tới không cập nhật theo dõi kịp thời... Trên phương diện công cụ quản lý đây chính là hạn chế lớn nhất có ảnh hưởng đến công tác quản lý.
c./ Nguyên nhân của những tồn tại.
Tồn tại nêu trên đối với quản lý công sở cơ quan hành chính có nhiều nguyên nhân từ khác quan cho tới chủ quan và chúng ta có thể khái quát như sau;
1- Theo tác giả, vấn đề quan trọng nhất là thiếu thông tin: Thông tin ở đây là thông tin thống kê về mặt định lượng của TSNN, nên thiếu hẳn tính thuyết phục khi ra chính sách. Nếu chúng ta không biết mình có bao nhiêu tiền và những loại tiền gì thì chúng ta sẽ không thể quản lý và chi tiêu hiệu quả được. Để giải quyết vấn để này chúng ta cần học tập kinh nghiệm một số nước về xây dựng phần mềm quản lý TSNN thống nhất.
2 - Hệ thống văn bản pháp quy về quản lý công sở nhà nước vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ, còn nhiều kẽ hở như Nghị quyết 9 Ban chấp hành TW Khoá IX nêu ra “Cơ chế, chính sách, pháp luật nhất là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, quản lý chi tiêu ngân sách còn nhiều sơ hở, hạn chế tác dụng ngăn ngừa sự lợi dụng vì vụ lợi” (tr20-70). Quản lý tài sản công nói chung và quản lý công sở nhà nước nói riêng được điều chỉnh ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến chồng chéo như đất đai là trụ sở làm việc vừa được điều tiết bởi Luật đất đai, vừa được điều chỉnh bởi Luật quản lý, sử dụng TSNN. Ví dụ liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quản lý nhà trên đất của cơ quan hành chính sự nghiệp được quy định tại điều 9 Nghị định 14/1998/NĐ-CP được sửa đổi lại tại điều 27 Nghị định 137/2006 và được quy định tiếp tại điều 186 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật đất đai sửa đổi 2003. Hiện nay trụ sở làm việc cơ quan hành chính được giao cho 3 cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Tài chính quản lý quá trình sử dụng, điều chuyển, thanh lý, kinh phí thường xuyên, Bộ
Kế hoạch- Đầu tư quản lý khâu đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc, Bộ Xây dựng quản lý nhà nước về trụ sở làm việc, quy trình kỹ thuật về xây dựng, bảo dưỡng… Trong khi đó cơ quan quản lý nhà nước về trụ sở làm việc không tham gia xem xét, thẩm định, quyết định đầu tư mới, cải tạo, nâng cấp.. do đó dẫn đến việc đầu tư xây dựng không theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng công sở làm việc và có nơi thừa có nơi thiếu gây khó khăn cho sắp xếp điều chuyển.
3 - Công tác tổ chức ngân sách nhà nước hiện nay tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển dẫn đến việc khai thác không hiệu quả giai đoạn đầu khi đưa trụ sở vào hoạt động. Vì ngân sách theo năm một, chi đầu tư do Bộ Kế hoạch đầu tư lập, chi thường xuyên do Bộ Tài chính cân đối. Nếu công trình đi vào hoạt động trong năm, những tháng còn lại không có kinh phí cân đối điều này sẽ dẫn đến xuống cấp nhanh hay chậm đi vào khai thác gây lãng phí. Cùng với đó là công tác buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra của cơ quan chức năng tại các khâu như chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, quản lý sử dụng…trải qua một thời kỳ dài buông lỏng nên trở thành thói quen khó khăn cho công tác siết chặt quản lý và đổi mới phương pháp làm việc.
4 - Các cơ quan hành chính quan tâm chủ yếu đến kinh phí, xin kinh phí mà chưa chú ý đến việc hiệu quả quản lý và quy trình theo quy định văn bản pháp luật nên tồn tại hạn chế trong nhận thức và quản lý TSNN. Công tác quản lý TSNN là trụ sở làm việc chưa gắn kết các công đoạn dự toán, giải ngân và quyết toán kinh phí đầu tư, mua mới, sửa chữa.
5 - Chế tài xử phạt trong vi phạm chính sách chưa nghiêm kể cả với người đứng đầu, xử lý sai phạm chưa kiên quyết, triệt để mang tính hình thức, hành chính. Ví dụ như những sai phạm gần đây liên quan đến cho thuê, mượn đất, công sở các Bộ, ngành nhưng kết quả không được công khai, đến cuối năm 2005 mới chỉ sắp xếp thu hồi 34,7% diện tích vượt tiêu chuẩn, sai phạm.
6 - Đối với cán bộ công chức và người quản lý, việc nhận thức rõ về vai trò, quy mô, ý nghĩa của tài sản công chưa cao. Một số nơi còn lợi dụng tài sản công vì mục đích nhóm hay cá nhân mà báo chí gần đây là “tư bản thân hữu với cơ chế hoạt động đặc biệt” ( tức là chuyển dần TSNN thành cổ phần, góp vốn rồi vào túi cá nhân quan chức, bỏ qua cấp chủ quản, báo cáo xin ý kiến trực tiếp cấp cao hơn hay Trung ương), điều này thể hiện trách nhiệm quản lý không cao, mà cụ thể là:
+ Mặc dù bộ máy quản lý công sản được thành lập từ TW đến địa phương, cơ quan cấp địa phương chịu sự hướng dẫn về cơ chế biện pháp của Cục công sản nhưng một số nơi cơ quan này đang hoà nhập vào các bộ phận khác của Sở tài chính thay vì tồn tại độc lập giúp cấp hành chính địa phương quản lý khối tài sản quan trọng này. Đây chính là biểu hiện coi nhẹ hoặc không ý thức hết vai trò, ý nghĩa của TSNN.
+ Các cơ quan hành chính trực tiếp quản lý trụ sở làm việc rất tùy tiện trong bố trí sử dụng, chưa ý thức hết việc theo dõi báo cáo biến động trụ sở làm việc, chỉ khi xảy ra sự vụ hay cần kinh phí sửa chữa thì mới thực hiện thống kê, đánh giá.
+ Cuối cùng là công tác nhân sự và năng lực công chức: Đội ngũ cán bộ quản lý rất mỏng và có nhiều hạn chế từ TW đến địa phương nên thiếu sự thống nhất và hạn chế nhận thức trong quản lý. Cơ quan quản lý không đủ nhân lực và không thể thực hiện kiểm tra, giám sát tổng thể trên diện rộng. Ví dụ Cục quản lý công sản chỉ có 36 biên chế, cấp địa phương nếu là phòng trực thuộc sở của cấp tỉnh chỉ có từ 5-7 người, làm từ A đến Z với tất cả các khâu quản lý, các loại TSNN nên không thể sâu sát, chưa kể đến thiết bị trợ giúp hạn chế, phần mềm và mạng dữ liệu không có.
7 - Nhiều nơi quan niệm bất động sản công là một lợi ích miễn phí. Để khắc phục quan điểm này cần khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cải cách kế toán và quản lý TSNN là trụ sở làm việc cơ quan hành chính:
Việc cải cách kế toán thường phải đi trước một bước khi tiến hành cải cách quản lý TSNN trong đó có bất động sản công. Cụ thể nội dung thay đổi kế toán khi cải cách liên quan tới bất động sản công: (1) Việc định giá bất động sản công trên bảng cân đối kế toán được thay đổi (thúc đẩy) ở mức độ nào đối với cơ quan hành chính và sự nghiệp. (2) Chuyển sang kế toán dồn tích theo dõi sự biến động giá trị có ảnh hưởng thế nào đến kế toán và quản lý bất động sản công (trụ sở làm việc cơ quan hành chính) và (3) chính sách quản lý bất động sản công gắn với các nguyên tắc kế toán có tầm quan trọng như thế nào?
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ những phân tích thực trạng của chương hai mà bắt đầu là tổ chức cơ quan nhà nước trong quản lý trụ sở làm việc của các cấp, tiếp đến là quy trình quản lý trụ sở làm việc với các bước như hình thành đến khai thác, sử dụng và cuối cùng là sắp xếp, xử lý được cơ quan nhà nước quy định chi tiết tại từng Nghị định, Quyết định hay thông tư như thế nào. Bằng số liệu kiểm kê được phân tích chi tiết cho chúng ta thấy tiềm lực thực sự và khả năng quản lý của các cấp đối với TSNN nói chung và trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nói riêng trong sốt quá trình hơn 10 năm. Thời gian này với những thay đổi về văn bản và tổ chức đã có những gián đoạn số liệu thông kê mà kết quả cuối cùng phân tích thực trạng cho chúng ta những nhận xét đánh giá rằng: Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng kết quả hơn 10 năm quản lý đã đem lại những đóng góp lớn cả về kinh tế, xã hội, nhận thức chung về vai trò ý nghĩa TSNN là trụ sở công. Tuy nhiên trước đòi hỏi của cơ chế mới và hội nhập, đặt hiệu quả lên hàng đầu thì công tác quản lý còn những hạn chế cần được làm sớm. Đó là những hạn chế về:
Chưa theo dõi được biến động tổng thể và chính xác TSNN nói chung và trụ sở của cơ quan hành chính nói riêng trên toàn quốc.
Thiếu hẳn một cơ chế và phương pháp hiệu quả trong quản lý nếu so sánh với những nước được cho là chuẩn mực quản lý giám sát TSNN.
Không gắn kết hiệu quả trong quản lý khai thác với tài chính (hay ngân sách được giao) mà trong đó phải kể đến những nguyên nhân như văn bản pháp lý, thiếu thông tin, không đánh giá và nhận thức đúng vai trò tài sản công…
Tất cả thực trạng nêu trên đây là cơ sở nền tảng để phân tích những giả pháp và đề xuất mô hình quản lý trong chương ba.
CHƯƠNG 3
HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TRỤ SỞ LÀM VIỆC CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Một quốc gia đang phát triển như Việt nam, công cuộc đổi mới quản lý tài sản công nói chung và trụ sở làm việc, một tài sản có giá trị lớn nhất của nhà nước nói riêng là một phần của những cố gắng nỗ lực cải cách Tài chính công trong điều kiện hội nhập nhằm khôi phục đúng giá trị của nguồn nội lực, cơ cấu lại công tác tổ chức quản lý hướng tới sự hợp lý, chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Việc sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát, bất hợp lý trong khai thác sử dụng và tiêu cực trong giai đoạn xử lý, sắp xếp là điều không tránh khỏi, nhất là đối với các nước đang phát triển, nước nghèo. Vấn đề là, liệu hệ thống quản lý có cho phép nhận ra đó là sự bất hợp lý và cần thiết phải đổi mới hay không?
Đổi mới hay cải cách nhằm hoàn thiện trong quản lý là công việc diễn ra thường xuyên ở bất cứ lĩnh vực nào hay nền kinh tế nào. Bởi vì luôn tồn tại những hạn chế hay bất hợp lý do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại. Do đó công tác đổi mới quản lý TSNN cũng có thể diễn ra thường xuyên và liên tục xuất phát từ những tồn tại hạn chế khi phân tích thực trạng quản lý tài sản công của Việt nam.
3.1./ Mục tiêu, yêu cầu đổi mới quản lý trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nhà nước
a./ Về mục tiêu:
Nhà nước ta đang khẳng định quyết tâm hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới với mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định, bền vững hướng tới “xã hôi công bằng, dân chủ, văn minh”. Sau khi hoàn thành kế hoạch kinh tế 2000-2005, giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn trung tâm của thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có khoa học công nghệ phát triển, đời sống được nâng cao.
Để đạt được mục tiêu chung đó, chúng ta phải thực hiện khai thác cao nhất mọi nguồn lực của đất nước kết hợp tranh thủ từ bên ngoài, nhất là sau khi chúng ta gia nhập WTO cuối năm 2006. Xác định nguồn nội lực là chính, ngoại lực là quan trọng, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã chỉ rõ: “ Bổ sung