Hợp đồng này trao đổi các khoản thanh toán lãi của một số lượng danh nghĩa (notional amount) tại một ngày trong tương lai, trao đổi lãi suất thả nổi và cố định cho nhau trên một đồng tiền nhất định. Trong hệ thống các ngân hàng, có một số ngân hàng với TSN được trả bằng lãi suất thả nổi trong khi TSC nhận bằng lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng lên, những ngân hàng như vậy phải trả lãi nhiều hơn cái mà họ nhận được. Những ngân hàng như vậy nên thực hiện các hợp đồng hoán đổi để hạn chế RRLS.
Loại phổ biến nhất của IRS là loại Plain Vanila, trong đó một bên trả lãi suất thả nổi (thông thường là LIBOR 6 tháng), đổi lại bên kia thanh toán lãi suất cố định. Các hợp đồng này được thực hiện giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng và các công ty lớn, trong đó các bên tìm kiếm việc che chắn RRLS.
Hợp đồng hoán đổi Swap về nguyên tắc dùng để quản lý các RRLS trung và dài hạn. Hợp đồng Swap thì không có phí nhưng là một cam kết các bên hoán đổi các dòng lãi suất tại một ngày đáo hạn đã xác định. Các dòng tiền trả và nhận có thể được cấn trừ cho nhau. Cũng như tất cả các công cụ phái sinh khác, hợp đồng hoán đổi không có liên quan đến việc trả, nhận hoặc chuyển số lượng gốc mà lãi suất được tính căn cứ vào số lượng gốc này, hợp đồng hoán đổi chỉ hoán đổi lãi suất cho nhau. Nếu kỳ hạn của hợp đồng nhỏ hơn 1 năm đó gọi là Swap trên thị trường tiền tệ. Nếu kỳ hạn của Swap trên 1 năm, đó được gọi là “Term Swap”.
Kết quả cuối cùng của việc các NHTMVN sử dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất là kỳ hạn (Duration) của các TSC trong và ngoài bảng TKTS sẽ cân bằng với kỳ hạn của các TSN trong và ngoài BTKTS, dẫn đến không còn RRLS nữa.
3.2.7.2. Hợp đồng kỳ hạn lãi suất - FRAs
Như chúng ta đã biết các hợp đồng giao ngay có một nhược điểm là sự không chắc chắn trong dài hạn. Trong thị trường thay đổi nhanh như hiện nay các hợp đồng kỳ hạn chắc chắn là một công cụ hữu hiệu. Mốt số đặc điểm hữu hiệu của hợp đồng kỳ hạn là:
- Chắc chắn sẽ thực hiện khi đến hạn hợp đồng
- Giá (lãi suất) đã được xác định tại ngày giao dịch
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý rủi ro lãi suất tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 24
- Quản lý rủi ro lãi suất tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 25
- Hợp Đồng Hoán Đổi Lãi Suất (Interest Rate Swaps=Irs)
- Quản lý rủi ro lãi suất tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 28
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
- Đây là thoả thuận song phương giữa người cho vay và người đi vay.
Trong thị trường tiền tệ, hợp đồng kỳ hạn lãi suất gọi là FRAs (Forward Rate Agreements), trong đó hai bên thoả thuận phần chênh lệch để đền bù cho bất kể sự thay đổi lãi suất nào giữa hai ngày của hợp đồng. Bởi vì FRAs là công cụ trên thị trường OTC, các bên tham gia hợp đồng tự thoả thuận với nhau về:
-Lượng tiền danh nghĩa mà lãi suất sẽ được tính trên số tiền này
-Loại tiền của số lượng danh nghĩa, FRAs được thực hiện trên hầu hết các loại ngoại tệ. Điều này cũng xác định lãi suất thị trường được dùng để tính toán sự khác biệt giữa giá của FRA tại ngày thanh toán, ví dụ như nếu một FRA trên cơ sở đồng Bảng Anh (Sterling) với kỳ hạn hợp đồng 6 tháng, như vậy giá thị trường sẽ là LIBOR 6 tháng.
- Giá của FRA
- Ngày thanh toán
- Khoảng thời gian của hợp đồng (thông thường kéo dài đến 3 năm)
Bằng công cụ FRAs lãi suất được cố định cho một kỳ hạn xác định (kỳ hạn của hợp đồng) mà bắt đầu một ngày xác định trong tương lai và kết thúc cũng tại một ngày xác định trong tương lai.
Nếu một món vay hoặc gửi tiền được thực hiện hôm nay, vấn đề đơn giản khi chúng ta có giá yết cho lãi suất cố định. Tuy nhiên khi món cho vay hay tiền gửi bắt đầu tại một ngày trong tương lai, ta sẽ không biết giá thị trường tại thời điểm trong tương lai, mà FRAs có thể cung cấp được.
3.2.7.3. Hợp đồng quyền chọn lãi suất (Interest Rate Options)
Như đã đề cập ở Chương 1, Quyền chọn lãi suất cho người mua quyền chọn quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ để trả hoặc nhận lãi suất được tính toán tại một lãi suất xác định (The Strike or Exercise rate), đối với một số lượng danh nghĩa nhất định cho món vay hoặc tiền gửi cho một kỳ hạn xác định bắt đầu từ một ngày trong tương lai.
Nghiệp vụ này được gọi là Quyền chọn vì người mua chỉ thực hiện hợp đồng khi sự khác biệt giữa lãi suất thị trường tại thời điểm trong tương lai và giá của
quyền chọn là có lợi cho người mua. Nếu lãi suất không có lợi cho người mua, họ có quyền không thực hiện hợp đồng.
Không giống như FRAs và Futures, người mua quyền chọn có thể không thực hiện hợp đồng tại ngày đáo hạn của hợp đồng. Người mua quyền chọn phải trả phí có quyền không thực hiện hợp đồng và thực hiện theo giá thị trường nếu giá này tốt hơn.
Khi lãi suất biến động theo chiều hướng bất lợi cho người mua quyền chọn, anh ta có thể thực hiện quyền của mình.
Khi lãi suất biến động theo chiều hướng có lợi cho người mua quyền chọn, anh ta có thể từ bỏ quyền chọn và giao dịch theo giá thị trường.
Quyền chọn không cam kết bất kể bên nào việc đi vay/cho vay số lượng gốc danh nghĩa trên hợp đồng mà chỉ thanh toán phần giá trị hiện tại của sự khác biệt giữa giá thị trường và giá của quyền chon mà thôi.
Hợp đồng quyền chọn lãi suất là hợp đồng có thể mua bán lại trên thị trường OTC từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Do vậy, việc phát triển các sản phẩm này không những của NHNN mà còn của các NHTMVN để tạo ra các công cụ quản lý RRLS hữu hiệu.
Để có thể thực hiện tốt các công cụ che chắn RRLS trên thị trường liên ngân hàng, các NHTMVN cần có mối quan hệ mật thiết che chắn rủi ro hiệu quả. Hệ thống ngân hàng là hệ thống có quan hệ rất gần gũi và mật thiết với nhau , do vậy các ngân hàng không thể không cộng tác với nhau để che chắn rủi ro. Do thiết bị công nghệ lạc hậu hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam chưa có mối liên hệ mật thiết với nhau, các ngân hàng chỉ nghĩ đến quyền lợi và lợi nhuận của mình, chưa cân nhắc nhiều tới việc quản lý RRLS. Vì vậy, các ngân hàng cần thiết phải trao đổi các kinh nghiệm và kiến thức và xây dựng một hệ thống đánh giá rủi ro của TSC và TSN. Mỗi một ngân hàng cần nhận thức rõ được như vậy hiệp hội các ngân hàng Việt nam có vai trò rất quan trọng và các NHTM nên có mối quan hệ mật thiết với tổ chức này để bảo vệ quyền lợi của mình cũng như quyền lợi của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Trong nhiều trường hợp khi các NHTM thực hiện các giao dịch phái sinh để che chắn RRLS, nếu NHTM có thể tìm được đối tác thực hiện các giao dịch này trên thị trường liên ngân hàng thì việc hạn chế RRLS trở nên dễ dàng. Ngược lại khi không tìm được đối tác có nhu cầu ngược với mình ngân hàng cũng khó có biện pháp QTRRLS hữu hiệu, vì vậy cần đa dạng hóa các mối quan hệ liên ngân hàng trong việc che chắn RRLS.
Ngoài ra việc thiết lập mối quan hệ tốt với các ngân hàng bạn tạo cơ hội thu hút được nguồn vốn giá tốt, do vậy cũng làm giảm RRLS.
3.2.8. Tăng cường khả năng dự báo biến động của lãi suất tại Việt nam cũng như trên thế giới và đào tạo đội ngũ cán bộ QLRRLS
Như chúng ta đã biết việc dự báo lãi suất trên thị trường là một việc làm tương đối khó khăn, tuy nhiên nếu các NHTM có một bộ phận chuyên phân tích thị trường và có thể đưa ra các dự báo cho biến động của lãi suất trong tương lai thì đó cũng là một lợi thế lớn của ngân hàng.
Một nguyên lý rất đơn giản trong bộ phận kinh doanh nguồn vốn là khi ngân hàng dự đoán lãi suất đi lên trong tương lai, nếu đường cong lợi suất là positive thì ngân hàng nên đi vay dài và cho vay ngắn (Borrow Long and Lend Short) và ngược lại nếu ngân hàng cho rằng lãi suất trong tương lai đi xuống thì phản ứng của họ sẽ là đi vay ngắn và cho vay dài (Borrow Short and Long). Như vậy với sự nhận định chính xác về lãi suất thị trường ngân hàng không những hạn chế được RRLS của mình mà còn có điều kiện tìm kiếm thêm lợi nhuận cho ngân hàng bằng cách tạo ra các trạng thái vốn có lợi cho mình khi lãi suất thay đổi đúng như dự đoán.
Hơn nữa khi dự đoán được chiều hướng biến động của lãi suất, các NHTM sẽ có cơ cấu khe hở nhạy cảm lãi suất phù hợp tương ứng với các dự đoán của mình. Do vậy ngân hàng sẽ tránh được các tổn thất và sinh lời khi lãi suất biến động.
Như vậy việc tăng cường khả năng dự đoán tình hình thị trường trong đó có sự biến động về lãi suất là một yếu tố quan trọng trong việc QLRRLS.
Để tăng cường được sự đánh giá về tình hình thị trường, của lãi suất, tỷ giá..vv, ngân hàng cần có một bộ phận độc lập chuyên thu thập, sàng lọc phân tích các tin tức trên thị trường rồi từ đó đưa các nhận định về thị trường. Phòng/bộ phận này có thể đăng tải các nhận định của mình cho các đơn vị kinh doanh làm cơ sở tham khảo ra các quyết định kinh doanh.
Đào tạo đội ngũ cán bộ QLRRLS giỏi nghề
Trong ngân hàng mặc dù các nhân viên là đã luôn thạo nghề, tuy nhiên vẫn thiếu các nhân viên giỏi làm trong lĩnh vực QTRRLS. Ngân hàng cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi nghề trong lĩnh vực này.
Các NHTM nên chú trọng tới chính sách đào tạo cán bộ, việc đào tạo có thể do chính ngân hàng mình đào tạo (training on job) hoặc là gửi đi đào tạo trong nước cũng như nước ngoài. Do vậy, NHTM Việt nam cần phải từng bước xây dựng đội ngũ chuyên gia để quản lý rủi ro, đặc biệt là RRLS. Hơn thế nữa các NHTM cần có các phân loại chuẩn các TSC và TSN theo mức độ nhạy cảm với lãi suất và theo kỳ hạn chuẩn của riêng mình. Sự quản lý sẽ thực hiện được tốt khi kết hợp được việc đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi.
3.3. CÁC KIẾN NGHỊ
3.3.1. Các kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ đóng vai trò gián tiếp trong việc phát triển hệ thống ngân hàng. Chính phủ kiểm soát hệ thống ngân hàng thông qua NHNN, Chính phủ cần đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, tuy nhiên sự phát triển này cần có sự kiểm soát chặt chẽ được tình hình. Sự phát triển của thị trường này tạo cho các ngân hàng công khai các hoạt động tài chính của mình và giá trên thị trường thay đổi một cách trung thực.
Hơn nữa chính sách đầu tư nên phải phù hợp với sự phát triển kinh tế và được thông báo một cách rộng rãi để phòng ngừa các thiệt hại mà có ảnh hưởng tới thị trường vốn. Đối với trái phiếu Chính phủ, lãi suất cần hợp lý để tạo ra một tiêu chuẩn tốt cho các ngân hàng tái định giá lại TSC của họ. Hiện tại Chính phủ đã có những biện pháp tích cực để phát triển thị trường chứng khoán, thị trường tài chính,
tuy nhiên cũng còn rất nhiều việc phải làm để đảm bảo rằng các thị trường này phát triển mạnh và chắc chắn hơn.
3.3.2. Các kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Ngân hàng Nhà nước có chức năng kiểm soát các hoạt động của hệ thống ngân hàng thiết lập các chuẩn mực cho toàn bộ hệ thống. Tuy nhiên, NHNN cần thiết từng bước đưa ra các quy định hợp lý cho thị trường hiện tại. Để che chắn các RRLS thì sản phẩm phát sinh là một công cụ rất hữu hiệu nhưng các NHTM vẫn cần phải xin phép NHNN để sử dụng nó. NHNN quản lý toàn bộ hệ thống các NHTM bằng các văn bản pháp qui mà có lẽ là can thiệp hơi sâu vào hoạt động của NHTM.
NHNN nên can thiệp vào thị trường thông qua các chính sách tài chính, các công cụ gián tiếp của NHNN như tỉ lệ DTBB, thị trường mở OMO, thay đổi lãi suất tái chiết khấu, không nên can thiệp vào thị trường bằng các công cụ mang tính chất hành chính.
- Cho phép các NHTM từng bước được sử dụng các sản phẩm phát sinh, các công cụ hiện đại trên thị trường để che chắn RRLS.
- Ủng hộ việc hiện đại hoá ngân hàng vì nó sẽ giúp các nhà quản trị quản lý RRLS dễ dàng hơn.
- Mở rộng các hình thức cho vay cũng như việc dùng lãi suất thả nổi tương xứng với sự thay đổi của thị trường.
3.3.2.1. Lành mạnh hóa thị trường tài chính Việt nam, vận hành theo cơ chế thị trường
NHNN cần lắng nghe phản ứng của thị trường và cần thu thập những phản ứng, ảnh hưởng từ phía thị trường mỗi khi có những thay đổi về chính sách tiền tệ để có cơ sở đánh giá chính xác tác động của những thay đổi chính sách này đến những thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến RRLS.
Minh bạch chính sách tiền tệ, tạo niềm tin chính sách: các chính sách tiền tệ của NHNN phải nhất quán, minh bạch. Các phát ngôn của NHNN phải phản ánh đúng
chính sách của ngân hàng cũng như các chính sách của Chính phủ quản lý nền kinh tế vĩ mô.
Tăng cường hiệu quả của chế độ tự do hóa lãi suất, mặc dù hiện nay lãi suất cơ bản là lãi suất tham chiếu của các NHTM, trong một số giai đoạn vẫn có trần lãi suất, điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả của cơ chế lãi suất và sự cạnh tranh giữa các NHTM. NHNN cũng nên tránh sự điều chỉnh vào lãi suất bằng những mệnh lệnh hành chính. NHNN nên để thị trường hoạt động theo cung cầu và lãi suất phản ánh chính xác cung cầu trên thị trường tiền tệ.
Phát triển thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu: Phát triển mạnh đối tượng tham gia thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu, đảm bảo lãi suất trên thị trường này phản ánh đủ thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô và vi mô. Từ đó mới có thể xây dựng đường lợi tức (yield curve) thị trường, phục vụ cho công tác quản trị RRLS. Hoạt động trên thị trường tiền tệ (money market) còn hạn chế và lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ không thể là chuẩn mực (benchmark) cho các NHTM để dự đoán lãi suất trên thị trường cũng như lãi suất của trái phiếu và của các công cụ phái sinh. Thị trường tài chính chưa phát triển gây khó khăn cho các NHTM trong việc dung các công cụ phái sinh để che chắn RRLS. NHNN và Chính phủ cần phát triển hơn nữa thị trường tài chính, hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động trên thị trường tài chính để hỗ trợ các NHTM và nền kinh tế.
3.3.2.2. Tạo hành lang pháp lý để phát triển các công cụ phái sinh tại TTTC Việt nam
Một trong những cách hiệu quả nhất để quản lý RRLS là dùng các công cụ phái sinh. Tuy nhiên thị trường tài chính Việt nam thì chưa phát triển, chỉ mới ở trong giai đoạn đầu. Các công cụ tài chính còn rất sơ khai và số lượng giao dịch còn rất nhỏ.
Theo qui luật phát triển của thị trường các công cụ phái sinh chắc chắn sẽ phát triển như trên các thi trường tài chính thế giới. Nên chăng NHNN sớm đi vào nghiên cứu và cho phép các NHTM thực hiện các nghiệp vụ phái sinh này.
Khi có các hành lang pháp lý, các NHTM sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện các nghiệp vụ phái sinh cũng như chủ động hơn trong việc quản lý RRLS.
3.3.2.3. Hoàn thiện các điều kiện cần thiết để có một cơ chế kiểm soát lãi suất có hiệu quả
a.NHNN cần phải lượng hóa các loại lãi suất để xác định tính hợp lý và dự báo chiều hướng biến động của lãi suất trên thị trường, từ đó có tác động thích hợp thông qua việc điều hành CSTT, bởi vì việc tăng lên hay giảm xuống lãi suất của NHNN sẽ tác động ngay tới lãi suất của các NHTM đối với khách hàng.
b.Các NHTM cho khách hàng vay vốn dựa trên quan hệ cung cầu về vốn và qua đó tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận giưa ngân hàng với khách hàng.
c. Tách bách cho vay thương mại và cho vay chính sách. Các NHTM cho vay thương mại thì áp dụng lãi suất thị trường, còn cho vay đối tượng chính sách và cho vay theo chỉ đạo của chính phủ thì khi gặp rủi ro NHNN có trách nhiệm xử lý.
d. Chống sự cạnh tranh thiếu bình đẳng của các NHTM, của các NHTM lớn và nhỏ, điều này đòi hỏi phải phát huy vai trò của hiệp hội ngân hàng, theo dõi biến động thị trường tiền tệ để tổ chức dung hòa các sự cạnh tranh về lãi suất giữa các thành viên.
3.3.2.4. Hoàn thiện khung pháp lý và các qui định về đo lường và QLRRLS của các NHTMVM
Hiện nay, từ phía NHNN chưa có văn bản pháp lý nào qui định việc đo lường và QLRRLS tại các NHTM Việt nam. Nếu các qui định chi tiết về QLRRLS chưa đưa ra, các NHTM có thể chưa nhận thức được đầy đủ sự cần thiết cũng như cách thức đúng đắn để QLRRLS. Các văn bản pháp lý về các hoạt động phái sinh cũng còn thiếu (mới chỉ dừng lại ở hoạt động mua bán kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ và hoán đổi lãi suất). NHNN nên ra thêm các văn bản và hướng dẫn các NHTM trong việc QLRRLS cũng như các qui định về các sản phẩm phái sinh lãi suất. Đó là nền