các hoạt động trong một tổng thể, kế thừa, hỗ trợ cho nhau sẽ có tác động đáng kể đến quản lý nợ xấu.
- Công tác tổ chức quản lý nợ xấu được thực hiện chặt chẽ, khoa học sẽ phát huy năng lực, sức mạnh của từng cá nhân, hạn chế được những mặt yếu của họ, liên kết các cá nhân trong toàn ngân hàng, loại bỏ được những rủi ro đạo đức nghề nghiệp, khai thác tối đa mọi nguồn lực phục vụ cho công tác quản trị, đồng thời tạo ra được cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Giám đốc thì hạn chế được những rủi ro trong việc quản lý.
Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ xấu có tác động trực tiếp đến lập kế hoạch và triển khai xử lý nợ xấu. Với mô hình tổ chức được phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, đặc biệt là bộ phận xử lý nợ sẽ giúp công tác triển khai quản lý nợ hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn.
b) Nhận diện khách hàng nợ xấu
Nhận diện khách hàng nợ xấu được coi là bước đầu tiên trong quá trình quản lý nợ xấu tại ngân hàng. Nhận diện nợ xấu là việc phát hiện, xác định nợ xấu trên cơ sở các tiêu chí để nhận diện khách hàng nợ xấu. Các nội dung chủ yếu trong giai đoạn nhận biết rủi ro gồm có:
(i) Phân tích danh mục tín dụng của ngân hàng: để nhận biết những nguy cơ rủi ro phát sinh từ quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, ngành nghề, loại tiền...
(ii) Phân tích đánh giá khách hàng: nhằm phát hiện những nguy cơ rủi ro trong từng khách hàng và từng khoản nợ cụ thể. Phân tích đánh giá khách hàng là cả một quá trình từ khi tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận các thông tin từ phía khách hàng, tiến hành phân tích, thẩm định khách hàng trước, trong và sau khi cho vay.
Các NHTM thường đánh giá khách hàng để nhận diện nợ xấu thông qua 2 góc
độ:
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long - 2
- Tổng Quan Về Nợ Xấu Và Tác Động Của Nợ Xấu Ngân Hàng Thương Mại
- Phân Loại Nợ Xấu Theo Thời Gian Nợ Quá Hạn Và Khả Năng Thu Hồi Nợ
- Tiêu Chí Đánh Giá Quản Lý Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Giới Thiệu Về Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh Thăng Long
- Kết Quả Tín Dụng Của Vietinbank – Chi Nhánh Thăng Long
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
- Ngân hàng dựa trên mức độ nghi ngờ về khả năng trả nợ:
Đánh giá khả năng tài chính, lịch sử vay mượn và các thông tin liên quan khác
nhằm dự báo khả năng trả nợ của khách hàng vay.
Việc nhận diện theo các tiêu chí này thường phức tạp do phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin, độ lớn và tin cậy của dữ liệu, phương pháp và nội dung đánh giá.
Trong đó ngân hàng căn cứ vào nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp và ngân hàng thu thập để đánh giá các khoản vay, số lượng thông tin của mỗi khoản vay thu thập được căn cứ vào qui mô khoản vay và chi phí thu thập các thông tin đó. Các thông tin chủ yếu bao gồm:
+ Khách hàng trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng.
+ Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các qui định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
+ Khách hàng chậm hoặc trì hoãn thực hiện các báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân hàng mà không có sự giải thích minh bạch, không thuyết phục.
+ Khách hàng đề nghị gia hạn, điều chỉnh các khoản nợ nhiều lần không nêu lý do.
+ Có sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng mà không giải thích được lý do.
+ Chậm thanh toán các khoản lãi, phí khi đến hạn thanh toán.
+ Xuất hiện nợ đáo hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả vì những lý do: tiêu thụ hàng chậm, thu hồi công nợ chậm...
+ Mức độ vay thường xuyên gia tăng, vượt quá nhu cầu dự kiến.
+ Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo giảm sút so với định giá khi cho vay, có các dấu hiệu cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi, phát sinh các tranh chấp...
+ Khách hàng có dấu hiệu trông chờ vào các khoản thu nhập bất thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Khách hàng chấp nhận sử dụng nguồn vốn lãi suất cao với mọi điều kiện.
- Ngân hàng dựa vào thời gian quá hạn của khoản nợ
Nhận diện theo hình thức này thường không chính xác vì trên thực tế có nhiều khoản nợ chưa quá hạn nhưng chất lượng nợ đã suy giảm, thậm chí không còn khả năng thu hồi.
c) Phân loại nợ xấu
Phân loại nợ xấu được hiểu là quá trình các ngân hàng xem xét các danh mục cho vay và đưa khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và điểm tương đồng của khoản vay. Việc thường xuyên xem xét và phân loại nợ giúp các ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và trong trường hợp cần thiết, sẽ có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh trong chất lượng tín dụng các danh mục cho vay. Thông thường, các ngân hàng sử dụng hệ thống phân loại nội bộ. hệ thống phân loại quy định bởi các nhà giám sát yêu cầu được sử dụng chủ yếu phục vụ mục tiêu báo cáo, so sánh và giám sát.
Việc phân loại có sự khác biệt giữa các quốc gia và các ngân hàng do hệ thống phân loại khác nhau cũng như sự đánh giá của các cấp quản lý như quản lý ngân hàng, kiểm toán bên ngoài, thanh tra ngân hàng. Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng vẫn chưa có quy định và tiêu chuẩn quốc tế thống nhất được thừa nhận. Thông thường tại các NHTM hiện nay, các khoản nợ tương đồng về mức rủi ro và khả năng không trả được nợ được phân vào cùng một nhóm. Việc phân loại thành bao nhiêu nhóm nợ và các nhóm được tính là nợ xấu tùy thuộc vào qui định của cơ quan giám sát ngân hàng từng quốc gia và hệ thống phân loại nợ nội bộ của từng ngân hàng. Ví dụ ở Mỹ qui định 5 nhóm nợ, Brazil: 9 nhóm nợ, Mexico: 7 nhóm nợ, Singapore: 5 nhóm nợ, Việt Nam: 5 nhóm nợ. Một số nước không quy định cụ thể về số nhóm nợ mà cho phép các ngân hàng tự xác định và phân loại nợ theo hệ thống phân loại nợ nội bộ. Ví dụ ở Anh và Hà Lan các ngân hàng phân loại nợ theo hệ thống phân loại nội bộ, cơ quan quản lý ngân hàng định kỳ sẽ xem xét, đánh giá tính phù hợp của hệ thống phân loại nợ. Ở Pháp quy định các yêu cầu tối thiểu về đánh giá nợ mà không có hướng dẫn cụ thể về phân loại nợ xấu, theo đó các ngân hàng tự xây dựng hệ thống phân loại nợ nội bộ theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
Tại Việt Nam, hiện nay các ngân hàng tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN của NHNN, theo đó nhóm nợ của khách hàng được xác định là nhóm nợ có rủi ro cao nhất dựa trên kết quả phân loại nợ theo phương pháp định lượng, phương pháp định tính và theo thông tin do CIC cung cấp.
Việc xác định nhóm nợ của khách hàng tại từng NHTM dựa vào Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của từng ngân hàng. Đây là hệ thống gồm các bộ chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, các quy trình đánh giá khách hàng trên cơ sở định tính và định lượng về mặt tài chính, tình hình kinh doanh, quản trị, uy tín của khách hàng, được xây dựng cho từng đối tượng khách hàng khác nhau, kể cả các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng và những người có liên quan của đối tượng này, từ đó đưa ra hạng khách hàng và xác định nhóm nợ theo hạng khách hàng.
d) Xử lý nợ xấu
Để xử lý nợ xấu hiệu quả, ngân hàng phải căn cứ vào đặc điểm rủi ro từng khoản nợ để lựa chọn cách xử lý thích hợp nhằm có thể tận thu số nợ đã cho vay.
Hiện nay, các biện pháp xử lý nợ xấu được sử dụng bao gồm:
- Đôn đốc thu hồi nợ:
Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hôi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để họ duy trì hoạt động bình thường. Các biện pháp đôn đốc thu hồi chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định đồng thời cần vận dụng kết hợp với một số biện pháp khác.
- Cơ cấu lại nợ:
Cơ cấu lại nợ là biện pháp được sử dụng khi một khoản nợ đến kỳ hạn trả nợ nhưng ngân hàng đánh giá khách hàng khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng theo lịch trả nợ đã thỏa thuận trước đó do khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Trường hợp này ngân hàng có thể điều chỉnh kỷ hạn nợ hoặc gia hạn nợ nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể có khả năng; trả nợ đầy đủ đúng hạn theo thời hạn được cơ cấu lại. Các khoản nợ được cơ cấu lại phải trên cơ sở khi cơ cấu lại khách hàng có khả năng khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó tạo nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng.
Áp dụng biện pháp này đòi hỏi ngân hàng phải đánh giá chính xác khả năng phục hồi năng lực trả nợ sau khi cơ cấu lại. Trong trường hợp việc cơ cấu lại không cải thiện năng lực trả nợ sẽ làm nguy cơ rủi ro cao hơn.
- Cho vay tiếp để duy trì hoạt động:
Đây là biện pháp ngân hàng sử dụng cho các khách hàng có khó khăn tạm thời dẫn đến không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp này, nếu xét thấy việc cho vay bổ sung vốn có thể giải quyết khó khăn, giúp khách hàng khôi phục năng lực sản xuất kinh doanh, từ đó có thể hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cũ và nợ mới. Phương án này cỏ lợi đối với cả ngân hàng và khách hàng. Khách hàng có thể tránh được áp lực trả nợ để tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng tránh giảm được nợ quá hạn. Tuy nhiên, biện pháp này bị giới hạn bởi thời hạn được phép cho vay của ngân hàng và chỉ có thể áp dụng trong trường hợp triển vọng kinh doanh của khách hàng được đánh giá là tốt. Khó khăn trong việc trả các khoản nợ đến hạn chỉ là tạm thời do những nguyên nhân không cơ bản, có thể phục hồi được nếu được tiếp vốn để hoạt động. Nếu dừng cho vay thì khách hàng không khắc phục được khó khăn.
- Miễn/giảm lãi:
Ngân hàng có thể áp dụng biện pháp miễn/giảm lãi cho vay đối với khách hàng nhằm thu hồi đủ số nợ gốc đã cho vay và một phần tiền lãi (nếu có). Biện pháp này được áp dụng nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng (khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính không trả được nợ), tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống, khuyến khích khách hàng trả một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu còn lại tại ngân hàng.
- Hỗ trợ khách hàng thu hồi công nợ:
Trong trường hợp khách hàng có khó khăn trong việc trả nợ do có quá nhiều khoản phải thu chưa thu được. Để hỗ trợ khách hàng có nguồn trả nợ, ngân hàng có thể hỗ trợ khách hàng, trong việc thu hồi công nợ. Đặc biệt, trong trường hợp các khoản phải thu của khách hàng có liên quan trực tiếp đến những đối tượng đang có quan hệ giao dịch với ngân hàng (là khách hàng vay vốn, gửi tiền tại ngân hàng), ngân hàng có thể dựa vào mối quan hệ của mình để hỗ trợ khách hàng thu hồi công nợ, từ đó hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
- Xử lý tài sản đảm bảo:
Khi các khoản nợ xấu không thể cơ cấu, khách hàng chây ỳ không thanh toán
hoặc không có khả năng thanh toán nợ thì ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
+ Thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay: Thông thuờng khi xét duyệt cho vay, khách hàng cần có tài sản bảo đảm nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ nợ tại ngân hàng. Khi khách hàng không trả nợ. ngân hàng sẽ xem xét áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tài sản sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý để bàn giao cho ngân hàng, ngân hàng có thể sẽ tự bán công khai tài sản; hoặc bán qua trung tâm bán dấu giá tài sản; hoặc bán cho Công ty mua bán nợ.
+ Quản lý, khai thác tài sản: Tùy theo trường hợp cụ thể. ngân hàng có thể tiếp nhận tài sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ.
+ Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bão lãnh: Trong trường hợp việc đòi nợ từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu nguời bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xử lý tài sản bảo đảm của người bảo lãnh.
- Bán nợ:
Là việc NHTM chuyển giao quyền chủ nợ đối với các khoản nợ hiện đang còn dư nợ hoặc đang theo dõi ngoại bảng tại ngân hàng cho tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước cỏ nhu cầu mua nợ. Việc chuyển giao khoản nợ được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan. Một khoản nợ có thể được bán toàn phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiêu bên mua nợ và có thể được mua. bán nhiều lần. Phương thức bán nợ có thể được thực hiện thông qua đấu giá các khoản nợ theo quy định về đấu giá tài sản hoặc thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán hoặc bên mua hoặc thông qua môi giới.
Biện pháp này được ngân hàng sử dụng nhằm tận thu nợ xấu, khắc phục và xử lý được nợ tồn đọng, làm trong sạch, lành mạnh bảng cân đối kế toán, đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quà và phát triển bền vững. Thông thường các khoản mua, bán nợ hiện nay cùa các NHTM là các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng đã lâu, khó xử lý bằng các biện pháp thông thường, trong khi các biện pháp khác ngân hàng không có đủ năng lực tài chính hoặc hành lang pháp lý để thực hiện. Ngân hàng thương mại đánh giá biện pháp bán toàn bộ khoản nợ là biện pháp hiệu quả
nhất giúp ngân hàng nhanh chóng thu được tiền về để thực hiện quay vòng vốn, mặt khác nhằm giảm nợ xấu, cơ cấu lại danh mục tín dụng, giảm chi phí quản lý các khoản nợ xấu này.
Ngân hàng thuờng áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian hoặc bản thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản. Việc bán lại các khoản nợ xấu (hay quyền đòi nợ) cho một tổ chức khác (có thể là một ngân hàng hoặc Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản) sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này ngân hàng thuờng phải chấp nhận bán lại các khoan nợ với giá trị thấp hơn quyền đòi nợ hiện tại. Từ đó gây ra những tổn thất nhất định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng.
- Xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro:
Khi các biện pháp thu hồi khác không có hiệu quả. ngân hàng có thể dùng nguồn quĩ DPRR để bù đắp các khoản nợ xấu. Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các NHTM vận dụng tối đa nhằm xử lý nợ nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là dùng nội lực của ngân hàng để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên sẽ ảnh hường đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quá nhiều giải pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng trong khi vốn cho vay vẫn không thu hồi được. Vì vậy ngân hàng nên chú trọng vào các giải pháp thu hồi có tính triệt để hơn. Dùng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro không có nghĩa là khoản nợ của khách hàng được xóa bỏ. Các khoản nợ này vẫn được tiêp tục theo dõi ngoại bảng và thu hồi khi khách hàng có thể trả nợ (một phần hay toàn bộ).
- Chuyển nợ xấu thành vốn góp:
Đây là biện pháp ngân hàng xử lý nợ xấu thông qua việc dùng khoản nợ xấu để mua cổ phần của các khách hàng. Thực chất đây là biện pháp chuyển ngân hàng từ địa vị chủ nợ sang chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp đang có nợ xấu tại ngân hàng. Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi các khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh do nguyên nhân khách quan song có triển vọng phục hồi hoặc các doanh nghiệp tạm thời sa sút hoặc đối với khách hàng có nợ lớn nhưng vẫn có cơ hội phục hồi. Áp dụng biện pháp này có thể giúp ngân hàng nhanh chóng xử lý khoản nợ
xấu, làm sạch bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên nếu đánh giá khả năng phục hồi năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không chính xác: việc chuyển nợ thành vốn góp nhưng khách hàng không cải thiện được năng lực tài chính thì biện pháp này thực chất chỉ làm biến tướng khoản nợ xấu mà trên thực tể vẫn không thể thu hồi được.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu:
Chứng khoán hóa các khoản nợ là kỹ thuật chuyển các khoản nợ thành chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường tài chính. Để chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, ngân hàng phải tập hợp các khoản nợ có đặc điểm tương đồng và bán cho các tổ chức chuyên về chứng khoán hóa (Special Purpose Verhical- SPV). Các tổ chức SPV sẽ phát hành các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản nợ được chứng khoán hóa ra thị trường.
Thực hiện chứng khoán hóa sẽ giúp cho các khoản nợ xấu không có tính thanh khoản thành các chứng khoán được mua bán trẽn thị trường một cách dễ dàng. Vì vậy, đây củng được coi là một biện pháp xử lý nợ xấu hiệu quả, giúp ngân hàng giảm rủi ro, tăng vốn khả dụng và giảm tổn thất tín dụng.
Tuy nhiên thực hiện biện pháp xử lý này đòi hỏi ngân hàng phải có một số lượng lớn các khoản nợ có tính chất tương đồng, thị trường tài chính hoạt động ổn định và đặc biệt phải có các tổ chức chuyên nghiệp SPV.
- Sự trợ giúp của Chính phủ:
Đối với các khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của Chính phủ, các NHTM phải trông chờ vào nguồn bù đắp từ NSNN. Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi là các khoản vay có bảo lãnh của người thứ ba là Chính phủ. Do vậy, khi NHTM không thể thu hồi được nợ từ khách hàng vay thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng. Chính phủ cũng có thể sử dụng vốn ngân sách mua toàn bộ số nợ khó đòi của NHTM để xử lý dần trong một số năm nhằm giải thoát cho các NHTM không bị sa lầy vào khủng hoảng nợ xấu, giúp các ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra, trường hợp các khoản nợ xấu của hệ thống NHTM quá lớn, có thể