Chi nhánh Thăng Long, do vậy đề tài của tác giả nghiên cứu không có sự trùng lắp với các nghiên cứu trước. Các công trình nghiên cứu trên sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho luận văn. Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã chú trọng việc kế thừa, chọn lọc những ý tưởng liên quan đến đề tài, nhằm tìm hiểu sâu hơn, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nợ xấu phù hợp hơn với điều kiện thực tế của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long nói riêng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam nói chung.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống một số lý luận về nợ xấu và quản lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại
- Phân tích thực trạng quản lý nợ tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long giai đoạn từ 2017 đến 2019.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long từ năm 2020 đến năm 2025.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu QLNX tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Trong phạm vi đề tài luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại NHTMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long - 1
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long - 2
- Phân Loại Nợ Xấu Theo Thời Gian Nợ Quá Hạn Và Khả Năng Thu Hồi Nợ
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long - 5
- Tiêu Chí Đánh Giá Quản Lý Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
+Về không gian: Nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
+ Về thời gian: Đề tài tập trung vào nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long trong giai đoạn 2017 – 2019, các giải pháp phát triển được đề xuất cho giai đoạn 2020 – 2025
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Tác giả hành thu thập thông tin thứ cấp về thực trạng hoạt động tín dụng, nợ xấu và quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long (quy chế, chính sách và nguyên tắc tín dụng, các báo cáo về nợ xấu của ngân hàng). Các thu thập thông tin thứ cấp phản ánh tình hình diễn biễn nợ xấu của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long giai đoạn từ năm 2017 đến năm2019. Thông tin thứ cấp được tác giả thu thập từ báo cáo xử lý nợ xấu và dự phòng rủi ro của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2019.
- Phương pháp xử lý số liệu
+ Phương pháp tổng hợp: các số liệu thu thập được từ nợ xấu và quản lý nợ xấu để tổng hợp, lập bảng số liệu, tính toán số tuyệt đối, tương đối liên quan đến quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long trong giai đoạn 2017 – 2019
+ Phương pháp phân tích: Qua các bảng số liệu được lập, phân tích xu hướng biến động qua thời gian từ đó phân tích những ưu điểm, hạn chế trong quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long. Phân tích nguyên nhân của các hạn chế tồn tại. Từ đó, đưa ra những giải pháp pháp nhằm tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long.
+ Phương pháp so sánh: Dựa trên những dữ liệu đã thu thập được tiến hành so sánh tình hình quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long các năm từ 2017 đến 2019 để làm rõ được kết quả mà Ngân hàng đã đạt được trong hoạt động quản lý nợ xấu và điều mà Chi nhánh chưa làm tốt trong hoạt động này. So sánh theo không gian, thời gian; So sánh theo số tuyệt đối, số tương đối....
6. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ xấu và quản lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nợ xấu và tác động của nợ xấu ngân hàng thương mại
1.1.1. Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Ngân hàng thương mại
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất của nó – kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Ngân hàng thương mại đóng vai trò làm môi giới, trung gian cho sự gặp gỡ giữa cung và cầu tiền tệ thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xã hội rồi cấp tín dụng lại đối với cá nhân, tổ chức đang có nhu cầu và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng phản ánh tình hình nền kinh tế, sự vững mạnh, hay yếu kém của nền kinh tế được phản ánh rất rõ qua hoạt động của ngân hàng.
Để xác định một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Theo Nguyễn Văn Tiến: “NHTM là một “doanh nghiệp” đặc biệt, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Hoạt động chính của nó là huy động vốn từ các doanh nghiệp, vốn nhàn rỗi trong dân cư và sử dụng nguồn vốn đó cho vay để lấy chênh lệch lãi suất. Hoạt động cho vay phản ánh mối quan hệ giữa một bên là người cho vay còn bên kia là người đi vay theo cơ chế tín dụng và pháp luật hiện tại” [16]
Theo Phan Thị Thu Hà “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [4].
Điều 04 Luật các TCTD năm 2017 (luật số 17/2017/QH14) chỉ rõ: “Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động Ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng bao gồm NHTM, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác xã”.[14]
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận” [14].
Như vậy thông qua một số khái niệm về ngân hàng thương mại, ta có thể hiểu NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ với mục tiêu thu lợi nhuận, và nó có những đặc trưng như sau:
- Là một tổ chức tín dụng
- Là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
- Là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác. Điều nay khác với tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
1.1.1.2. Tín dụng của ngân hàng thương mại
Cho đến hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng. Theo lịch sử ra đời của hoạt động tín dụng, ban đầu khái niệm đơn giản về tín dụng là: “Tín dụng là những quan hệ vay mượn có sự hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, sự thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay về số tiền vay, lãi suất, thời hạn và phương thức trả nợ (trả một lần hay trả dần)” [16]. Nhưng nếu chỉ hiểu theo nghĩa đơn giản này thì tín dụng mới chỉ phản ánh ở một khía cạnh nào đó, còn mang tính chất chung chung, chưa bao trùm được cái tổng thể của hoạt động tín dụng.
Theo Nguyễn Văn Tiến (2013), “Tín dụng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”[16]. Đây cũng là khái niệm được sử dụng trong luận văn.
Như vậy, quan hệ cho vay của NHTM phải thoả mãn những đặc trưng sau:
Là quan hệ chuyển nhượng giá trị mang tính chất tạm thời: Sự chuyển quyền sử dụng vốn cho người sử dụng trong một thời gian nhất định, còn quyền sử dụng vốn thuộc quyền người sở hữu. Tức là trong thời gian vay, người cho vay không có quyền đòi và ngược lại, khi hết hạn cho vay nếu người đi vay không trả thì sẽ vi phạm pháp luật.
Đảm bảo tính hoàn trả về thời gian và giá trị: Đây là đặc trưng cơ bản nhất của quan hệ tín dụng, có nghĩa là nếu hết thời hạn vay người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi. Qua đó ta khẳng định rằng tín dụng mang tính chất có hoàn trả nhưng mang tính không ngang giá (thu về khoản tiền lớn hơn khoản tiền ban đầu). Đây là dấu hiệu cơ bản để nhận biết quan hệ tín dụng.
Quan hệ tín dụng của NHTM được xây dựng trên cơ sở sự tin tưởng giữa người cho vay và người đi vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ vay mượn khác, bởi vì có tin tưởng thì họ mới cho vay, ở đây tin có nghĩa là họ sẽ thu hồi nợ là một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
1.1.1.3. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Rủi ro là sự không chắc chắc liên quan đến tổn thất sẽ gánh chịu trong tương lai. Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải b ỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro, đặc biệt và thường xuyên là rủi ro trong tín dụng. Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Có nhiều định nghĩa dưới các giác độ khác nhau về rủi ro tín dụng.
Theo Nguyễn Văn Tiến (2013) thì “Rủi ro tín dụng của ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết” [16].
Như vậy, rủi ro tín dụng phát sinh khi một hoặc các bên trong hợp đồng cho vay không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính thực hiện nghiệp vụ vay tiền của người này để cho người khác vay. Như vậy, rủi ro tín dụng đối với ngân hàng xuất phát từ cả hai phía là người cho vay và người đi vay. Ngoài ra, rủi ro tín dụng được biểu hiện là tỷ lệ nợ quá hạn cao. Ở các nước tỷ lệ này lên đến 5% tổng dư nợ thì được coi là báo động.
1.1.2. Khái niệm và bản chất nợ xấu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
- Theo Ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu, nợ xấu trong các NHTM bao gồm:
+ Nợ không thể thu hồi được, bao gồm:
Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ nợ;
Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ;
Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ;
Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ;
+ Nợ có thể thu nhưng không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như: Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ trang trải toàn bộ khoản nợ; Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nợ nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận; Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp ở ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không thể trả nợ ngân hàng đầy đủ; Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi hoàn ít hơn dư nợ [29].
- Theo khái niệm nợ xấu của Tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF):
Trong Hướng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia(IFRS)2, IMF đưa ra định nghĩa về nợ xấu như sau: “một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ (người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế [30].
- Theo Ủy ban Basel:
Việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả (nợ xấu) khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: (i) ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi, ví dụ giải chấp chứng khoán (nếu đang nắm giữ) (ii) người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày.
- Tại Việt Nam,
Hiện nay, khái niệm nợ xấu theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng, để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, ban hành theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của Thống đốc NHNN Việt Nam và có một số sửa đổi trong Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của Thống đốc NHNN. Theo đó, nợ xấu được định nghĩa như sau:
“Nợ xấu là những khoản nợ thuộc các Nhóm: nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) nêu trên, cụ thể được quy định theo khoản 1 điều 10 của thông tư 02/2013/TT-NHNN và thông tư 09/2014/TT-NHNN như sau:
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; Nợ gia hạn nợ lần đầu;