Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Nhà Nước Đối Với Công Giáo


văn hóa đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên tôn vinh người có công với đất nước với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo” [38].

Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình các cơ quan QLNN phải có trách nhiệm bảo vệ những quyền cơ bản của công dân, được quy định tại Hiến pháp và các bộ luật của nhà nước, trong đó có quyền tự do TNTG. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân và vì dân cho nên đảm bảo quyền tự do TNTG cho công dân tức là bảo vệ hệ thống pháp luật về TNTG của nhà nước, bảo vệ quyền theo hoặc không theo một tôn giáo của công dân. Đồng thời các cơ quan nhà nước cũng có nhiệm vụ đấu tranh, phòng ngừa và ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền tự do TNTG để làm việc trái pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của đất nước.

Bên cạnh đó, QLNN cũng cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo thuần túy với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để có những biện pháp quản lý phù hợp, tránh can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo. Trong hoạt động tôn giáo, các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành phải tuân thủ các qui định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm đều bị phê phán, nghiêm cấm và xử lý theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với Công giáo

1.2.2.1. Yếu tố khách quan

- Toàn cầu hóa và kinh tế thị trường

Toàn cầu hóa trước hết được hiểu là quá trình chuyển từ tính quốc tế, vốn được hiểu theo nghĩa liên nhà nước, sang tính xuyên quốc gia. Các chiến lược bành trướng tôn giáo không còn hoặc ít liên quan đến các quyền bá chủ về chính trị và thường phụ thuộc vào phạm vi của các logic mới. Ngoài ra, các luồng tôn giáo này không còn giới hạn ở sự lưu truyền Bắc - Nam mà trở nên


đa chiều, mở rộng không gian tiếp nhận, ảnh hưởng và tiếp biến các yếu tố thuộc tôn giáo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Toàn cầu hóa đã tác động sâu sắc đến sự vận động, biến đổi và phát triển của nhân loại, là quá trình mở rộng dần không gian lãnh thổ, nên con người không chỉ tiếp cận với một hoặc các tôn giáo của đất nước mình, mà còn biết tới tôn giáo khác, thậm chí không phải tiếp thu một cách thụ động, mà còn chủ động tiếp thu với tinh thần phê phán. Từ đó dẫn đến sự phân hóa tín đồ các tôn giáo theo các mức độ tin theo tôn giáo của mình và nảy sinh hiện tượng một cá nhân cùng theo nhiều tôn giáo khác nhau.Tôn giáo là bộ phận của văn hóa đã và đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, điều đó vừa tạo ra thời cơ, nhưng cũng gây không ít khó khăn, trở ngại cho công tác QLNN về tôn giáo. Trong khi đó, tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp còn có nhiều điểm chưa phù hợp với nhiệm vụ, việc phối hợp các cấp, các ngành trong xử lý các vấn đề nảy sinh trong tôn giáo đôi khi còn thụ động; chưa khôn khéo, kịp thời.

Kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ đến tôn giáo. Đó là các xu thế thế tục hoá tôn giáo, hiện đại hoá tôn giáo, đa dạng hoá tôn giáo, sự xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới, đồng thời chỉ ra cơ sở của sự hình thành các tôn giáo mới và những đặc trưng điển hình của hiện tượng tôn giáo mới. Sự tác động của kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ 4.0 làm đời sống tôn giáo của nước ta có những biến đổi sâu sắc. Đó là sự biến đổi đức tin, nhu cầu sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo gia tăng với sự “trở lại niềm tin tôn giáo”diễn ra ở tất cả các tôn giáo, các cộng đồng, các tầng lớp dân cư ở mức “đậm”, “nhạt” khác nhau và ở mọi vùng miền trong cả nước. Diện mạo tôn giáo đã thay đổi theo xu hướng ngày càng đa dạng hóa, dẫn đến sự thay đổi đức tin, xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới

Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Công giáo trên địa bàn tỉnh Gia Lai - 5


đặt ra cho công tác QLNN về tôn giáo ngày càng có nhiều vấn đề cần giải quyết.

- Khoa học công nghệ

Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại khoa học công nghệ mà trong đó mọi khía cạnh của đời sống đều có ảnh hưởng của khoa học công nghệ. Tác động của khoa học công nghệ có sức mạnh đặc biệt đối với niềm tin tôn giáo truyền thống. Nhiều khái niệm liên quan đến tôn giáo đang bị lung lay dưới áp lực của khoa học công nghệ.

Bên cạnh đó, hoạt động tôn giáo trong đó có hoạt động của một số tổ chức, cá nhân chức sắc, chức việc Công giáo không tuân thủ các quy định pháp luật; lợi dụng hoạt động Công giáo, tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách, nói xấu chế độ, lôi kéo, kích động giáo dân chống đối chính quyền, gây xung đột, hình thành sự kiện chính trị bất ổn ở địa phương, làm phức tạp tình hình, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.

1.2.2.2. Yếu tố chủ quan

- Quan điểm phát triển và thể chế nhà nước

Nhà nước là chủ thể quản lý các tôn giáo. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo là những nhiệm vụ trọng tâm. Điều này được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013. Triển khai thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IV, kỳ thứ 2 thông qua ngày 18/11/2016. Đây là văn bản quy phạm thể chế hóa cụ thể nhất các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của quần chúng và các hoạt động của các tôn giáo (tính cho tới thời điểm này). Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 199/QĐ-BNV ngày 31/01/2018 về việc


công bố bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan đến tôn giáo. Quốc hội, Chính phủ tiếp tục ban hành và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến hoạt động tôn giáo như về đất đai, xây dựng, về đăng ký hộ khẩu... Hệ thống chính sách được ban hành, sửa đổi, bổ sung có tác động tích cực trong việc bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của nhân dân, cũng như quản lý các hoạt động tôn giáo theo pháp luật.

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chính sách của nhà nước

Thực tế hoạt động QLNN về tôn giáo rất phức tạp và nhạy cảm, đa dạng và thường xuyên phát sinh những vấn đề mới. Mặc dù hệ thống pháp luật về lĩnh vực tôn giáo của nước ta mới được ban hành như Luật Tín ngưỡng, tôn giáo nhưng một số mặt, một số nội dung chưa bao quát hết được mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Một số vấn đề phát sinh trong thực tế liên quan đến hoạt động tôn giáo, công tác tôn giáo nhưng trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định cụ thể gây ra sự khó khăn cho công tác QLNN về tôn giáo.

- Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo

Tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đang trong giai đoạn hoàn thiện. Ở cấp xã chưa có cán bộ chuyên trách về công tác tôn giáo, chỉ có cán bộ kiêm nhiệm, không phải là cán bộ chuyên trách nên thường không am hiểu kỹ để tham mưu kịp thời, đầy đủ, chính xác, điều này gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết các vấn đề tôn giáo ngay ở cơ sở.

Đội ngũ cán bộ QLNN về tôn giáo còn thiếu, bộ máy tổ chức chưa ổn định, thường xuyên tách, nhập. Đặc biệt là trình độ chuyên môn còn nhiều


hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác QLNN trong tình hình mới. Chưa thấy hết được tính nhạy cảm và những diễn biến khó lường, phức tạp trong công tác tôn giáo. Nhận thức về tôn giáo và chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác tôn giáo trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương chưa thật đầy đủ, thiếu tính đồng bộ và thống nhất.

- Tín đồ, chức sắc, nhà tu hành

Các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã khai thác triệt để những khía cạnh hiện nay chưa được quy định cụ thể trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành mà có lợi cho tổ chức tôn giáo để thực hiện các hoạt động tôn giáo như hiến tặng, chuyển nhượng đất đai cho các tổ chức tôn giáo, chia tách giáo xứ, giáo họ... Việc khiếu kiện, đòi lại nhà đất có nguồn gốc tôn giáo tiếp tục diễn biến phức tạp, có những sự việc đã thấy có dấu hiệu chỉ đạo thống nhất của tổ chức tôn giáo, kích động, xúi dục tín đồ làm đơn tập thể để gây áp lực với chính quyền địa phương. Một số nơi giáo hội đã chỉ đạo tín đồ thực hiện một số vụ việc khi chưa được sự đồng ý của chính quyền, tạo nên sự việc “đã diễn ra, đã rồi” buộc các cấp chính quyền phải có sự quan tâm giải quyết nhằm có lợi cho các tổ chức tôn giáo.

Nền kinh tế đã có những bước tiến vững vàng, tạo đà cho thời kỳ phát triển mới của đất nước, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Lĩnh vực văn hóa xã hội cũng đạt được những kết qua quan trọng, làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước tăng lên. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động công giáo, nhất là trong lĩnh vực truyền thông. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng


xã hội ngày càng hài hòa. Chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chính sách tôn giáo ở Việt Nam tiến gần hơn với luật pháp quốc tế.

1.3. Chủ thể, nội dung và phương thức quản lý nhà nước đối với Công giáo

1.3.1. Chủ thể và đối tượng quản lý

- Chủ thể của quản lý nhà nước về hoạt động Công giáo

Chủ thể quản lý nói chung là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tham mưu, xây dựng, ban hành quyết định, cơ chế, chính sách pháp luật quy định hoạt động của Công giáo. Theo những quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam, chủ thể QLNN về hoạt động Công giáo là những cơ quan, tổ chức và cá nhân sau:

- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ; ủy ban nhân dân các cấp, chủ tịch ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân các cấp.

- Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ và Vụ Công giáo thuộc Tôn giáo Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền riêng, QLNN về chuyên ngành tôn giáo ở Trung ương.

- Ban Tôn giáo cấp tỉnh (trực thuộc Sở Nội vụ), phòng Nội vụ (cấp huyện) là cơ quan có thẩm quyền riêng, QLNN về chuyên ngành tôn giáo ở địa phương.

Ngoài ra, còn có cơ quan phối hợp làm công tác tôn giáo như: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên; cơ quan Công an, cơ quan Quốc phòng; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Dân vận Tỉnh ủy...

- Đối tượng quản lý nhà nước về hoạt động của Công giáo

Đối tượng QLNN về hoạt động Công giáo là những tổ chức, cá nhân, các mối quan hệ, các sự việc, hiện tượng chịu tác động, điều chỉnh từ phía các cơ quan hành chính Nhà nước. Đây chính là những quá trình tôn giáo, các


hoạt động tôn giáo của những tổ chức, giáo xứ, giáo phận, chức sắc, tín đồ Công giáo, những đối tượng này chịu những tác động, ảnh hưởng bởi chủ thể QLNN.

Bên cạnh đó, đối tượng QLNN về hoạt động Công giáo còn là các quá trình hoạt động đạo của những chức sắc, tín đồ của các tổ chức Công giáo và các công trình kiến trúc của Giáo hội Công giáo.

1.3.2. Nội dung quản lý

Thứ nhất, xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo đối với Công giáo. Những nhiệm vụ cụ thể của nội dung này như sau:

- Thể chế hóa những văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về tổ chức, hoạt động của tôn giáo và Công giáo.

- Xây dựng và ban hành những văn bản quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo các địa phương và cơ quan QLNN về tôn giáo cấp huyện, cấp xã.

- Xây dựng và ban hành các văn bản quy định việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong QLNN về tôn giáo.

- Xây dựng và ban hành các chính sách liên quan đến tôn giáo nói chung và chính sách đối với Công giáo nói riêng như: chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo; chính sách nhà đất tôn giáo; chính sách liên quan đến hoạt động giáo dục đào tạo của các tôn giáo; chính sách từ thiện, nhân đạo; hợp tác quốc tế,...

- Xây dựng và ban hành các quy trình, thủ tục hành chính quy định các hoạt động liên quan quan đến tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng.

- Tham mưu cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng.


Việc quản lý, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về Công giáo, gồm các nội dung:

- Quản lý việc thành lập, chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể các tổ chức Công giáo.

- Quản lý việc thành lập, giải thể các trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động trong l nh vực thần học.

- Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm chức sắc trong các tổ chức Công giáo.

- Quản lý việc thuyên chuyển nơi hoạt động của chức sắc Công giáo.

- Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của Công giáo các

cấp.

- Quản lý các giảng đạo, truyền đạo của các tổ chức, chức sắc Công giáo

ngoài cơ sở Công giáo.

- Quản lý việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình Công giáo, công trình phụ trợ thuộc cơ sở Công giáo. Quản lý việc khai thác và sử dụng đất của các tổ chức Công giáo.

- Quản lý các hoạt động giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức Công giáo.

- Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức Công giáo; những hoạt động Công giáo có tính quốc tế; hoạt động của những chức sắc, tín đồ Công giáo người nước ngoài tại Việt Nam và hoạt động của các chức sắc, tín đồ Công giáo người Việt có liên quan đến yếu tố nước ngoài.

- Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến Công giáo mang yếu tố nước ngoài.

Thứ hai, quy định tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo và nghiên cứu trong lĩnh vực tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo, nội dung này bao gồm các công việc:

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 16/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí