Tổng Quan Nghiên Cứu Về Quản Lí Hoạt Động Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Trường Phổ Thông

phương pháp theo quan điểm hệ thống - cấu trúc trong nghiên cứu khoa học. Khi nghiên cứu khoa học giáo dục luôn phải phân loại các hiện tượng giáo dục, sắp xếp các kiến thức thành hệ thống có thứ bậc, có trật tự qua đó có được một chỉnh thể với một kết cấu chặt chẽ để từ đó xây dựng một lý thuyết hoàn chình.

- Phương pháp khái quát hóa: Khái quát hóa là dùng những câu cú súc tích, đơn giản a, b, c, d… để cung cấp cho người khác nội dung vấn đề từ một hay nhiều khía cạnh khác nhau. Càng đi sâu và càng đi rộng ta càng tạo ra khung cảnh sát thực của vấn đề hơn.

Quá trình khoa học của khái quát hóa thường đi theo các bước sau: Bước 1: Nêu vấn đề, nhiệm vụ đặt ra của vấn đề.

Bước 2: Thu thập các ý kiến.

Bước 3: Tổng hợp, đánh giá và sắp xếp các loại ý kiến theo chiều sâu và chiều rộng.

Bước 4: Phân nhóm các loại ý kiến.

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên để nghiên cứu các tài liệu lý thuyết có liên quan đến đề tài như các văn bản quy phạm pháp luật, các tài liệu khoa học, các luận văn… nhằm xây dựng khung lí thuyết của quản lí hoạt động KĐCLGD ở trường trung học cơ sở.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát

Quan sát các cách tiến hành hoạt động theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

7.2.2. Phương pháp điều tra bằng ankét

Chúng tôi sử dụng các bảng hỏi dành cho CBQL, GV để tìm hiểu thực trạng về quản lý kế hoạch, mục tiêu chương trình, đội ngũ, quản lý về cơ sở vật chất… phục vụ cho hoạt động TĐG, kiểm định chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở.

Quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 3

7.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm

Nghiên cứu các báo cáo tự đánh giá, hệ thống hồ sơ tự đánh giá của các trường. Từ đó đưa ra những kết luận ban đầu trong hoạt động TĐG, KĐCLGD.

7.2.4. Phương pháp phỏng vấn

Sử dụng phương pháp phỏng vấn, đàm thoại để thu nhận thông tin, làm rõ những thông tin đã thu thập được thông qua phương pháp điều tra. Qua đó tìm hiểu thêm những biện pháp thực hiện hoạt động TĐG, kiểm định chất lượng giáo dục của các trường. Những thông tin này có giá trị làm căn cứ để nhận xét, khẳng định chính xác hơn thực trạng biện pháp thực hiện hoạt động TĐG của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở. Ngoài ra, có thể tìm hiểu thêm các nhân tố ảnh hưởng tới thực trạng đó cũng như những khuyến nghị của họ. Đồng thời những thông tin này cũng giúp cho nhà nghiên cứu có thêm căn cứ để khẳng định tính trung thực, độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.

7.2.5. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

Tham khảo ý kiến của các lãnh đạo và chuyên viên Sở GDĐT, Phòng GDĐT, các đồng chí Hiệu trưởng, GV lâu năm, các nhà quản lý… để có thêm thông tin tin cậy đảm bảo tính khách quan cho các kết quả nghiên cứu. Đặc biệt xin ý kiến đóng góp cho những đề xuất biện pháp nhằm quản lý có hiệu quả việc thực hiện hoạt động TĐG, KĐCLGD ở các trường trung học cơ sở.

7.2.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

Thông qua kết quả công tác TĐG và ĐGN theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng của các trường THCS trên địa bàn, cũng như trao đổi kinh nghiệm với các CBQL thực hiện công tác KĐCLGD,… rút ra các kết luận, các biện pháp nhằm quản lý tốt hơn hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở.

7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

Dùng để xử lý các số liệu thu thập được trong quá trình điều tra thực trạng quản lý hoạt động KĐCLGD bằng các công thức toán học, thống kê để tính toán giúp cho các kết quả nghiên cứu trở nên chính xác và đảm bảo độ tin cậy.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

8.1. Ý nghĩa khoa học

- Đánh giá được tổng quan hoạt động KĐCLGD ở một số trường trung học cơ sở TPTN, tỉnh Thái Nguyên.

- Phân tích ảnh hưởng liên quan tới công tác KĐCLGD, phân tích SWOT của hoạt động KĐCLGD.

8.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Đề xuất hệ thống biện pháp nhằm nần cao công tác quản lý hoạt động KĐCLGD trường THCS theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở.

9. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu; kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3 chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lí hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở.

Chương 2: Thực trạng quản lí hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở một số trường trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Tổng quan nghiên cứu về quản lí hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trường phổ thông

1.1.1. Lịch sử nghiên cứu trên thế giới

Hoạt động KĐCLGD được bắt nguồn từ châu Mỹ cụ thể là từ Bắc Mỹ và Hoa Kỳ đã được hình thành và có lịch sử lâu đời. Mặc dù vậy, hoạt động này mới chỉ phát triển ở những năm 90 của thế kể XX, khi mà giáo dục đại học của thế giới đang chuyển dần từ nền giáo dục theo định hướng của nhà nước sang nền giáo dục theo định hướng thị trường. Năm 1885, ở New England thuộc miền Đông Bắc Hoa Kỳ đã thành lập một tổ chức phi chính phủ gọi là Hội các trường học và trường cao đẳng của New England (NE). Đây là một tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục địa phương đầu tiên thuộc phạm vi vùng gồm một số bang với mục đích là “đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục bằng cách thúc đẩy lợi ích chung cho cả hai loại trường là cao đẳng và trường chuẩn bị vào cao đẳng” Hội này đổi tên thành Hội các trường Cao đẳng và Trung học của New England năm 1957. “Kiểm định cơ sở đào tạo tại địa phương có phạm vi bao trùm toàn bộ một cơ sở đào tạo với sự cố gắng giữ được các tiêu chuẩn đối với mọi hoạt động của cơ sở đó mà không phải chứng minh chất lượng một bộ phận nào của cơ sở đó”.

Ở châu Á, các nước như Singapo, hệ thống đánh giá bên ngoài của các Trường Đại học Quốc gia do các chuyên gia của các trường đại học danh tiếng trên thế giới đến đánh giá 2 năm/lần; Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã xây dựng hệ thống KĐCLGD với chu kỳ kiểm định 7 năm/lần; Thái Lan đã ban hành chính sách quốc gia về bảo đảm chất lượng đào tạo đại học từ 1996 và thử nghiệm đánh giá bên ngoài từ 1997; Philipin thực hiện 9 biện pháp cải cách giáo dục cơ bản để nâng cao chuẩn của chất lượng giáo dục đại học trên toàn quốc; Trung Quốc đã ban hành quy chế tạm thời về đánh giá các cơ sở giáo dục và đào tạo

đại học; Ấn Độ đưa ra hệ số tính điểm để thể hiện rõ những tiêu chí đánh giá quan trọng. Đối với Ôxtraylia, vấn đề bảo đảm chất lượng được chú trọng từ những năm 1980 và một số trường đã bước đầu thành công trong việc tổ chức và đánh giá trường theo định kỳ. Đến nay cơ chế bảo đảm chất lượng ở Ôxtraylia đã hình thành với nhiều cơ quan, như Cơ quan chất lượng các đại học Ôxtraylia (AUNQA)…Vấn đề bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Malaysia theo mô hình của NiuDilân với cơ chế đảm bảo chất lượng bên trong và bên ngoài. Để một trường đào tạo có thể được phép tổ chức các khóa học thì các khóa đó phải được đánh giá bằng 2 chuẩn cơ bản được gọi là chuẩn tối thiểu và chuẩn kiểm định. Theo điều luật LAN năm 1996, kiểm định có ý nghĩa như là sự công nhận chính thức trên thực tế các chứng chỉ, các bằng đại học và sau đại học do cơ sở giáo dục và đào tạo đại học cấp là phù hợp với yêu cầu của tổ chức LAN.

Tại khu vực Đông Nam Á, năm 1995 mạng lưới các trường đại học khối ASEAN (AUN) đã được thành lập, bao gồm 17 đại học hàng đầu các nước thành viên ASEAN. Một trong những hoạt động chính của AUN là xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng. Một trong những hoạt động chính của AUN là xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng với chính sách 5 điểm sau:

- Các đại học thành viên của AUN sẽ cố gắng liên tục để tăng cường thực hiện hệ thống bảo đảm chất lượng.

- Các đại học thành viên của AUN sẽ thực hiện việc trao đổi bảo đảm chất lượng và các chương trình đào tạo trong khuôn khổ thực hiện thỏa thuận giữa các giám đốc cơ quan bảo đảm chất lượng của các đại học thành viên.

- Các giám đốc các cơ quan bảo đảm chất lượng của các đại học thành viên AUN sẽ hoạch định kế hoạch hình thành và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng của mình và được công nhận bởi AUN.

- Các đại học thành viên của AUN hoan nghênh việc thực hiện kiểm toán bên ngoài lẫn nhau trên cơ sở các thỏa thuận và sử dụng công cụ kiểm toán chung được thừa nhận trên thế giới và các chuẩn mực của các đại học thành viên.

- Các tiêu chí chất lượng các hoạt động chính sách của các đại học thành viên AUN (giảng dạy-học tập, nghiên cứu và dịch vụ) sẽ được thể hiện trong các công cụ kiểm toán do AUN soạn thảo gồm hệ thống 6 tiêu chí bảo đảm chất lượng (Mỗi tiêu chí có 2 mức).

Từ đó cho thấy, hoạt động KĐCLGD cũng như các tiêu chuẩn, quy định, chu kỳ, chu trình thực hiện đã xuất hiện và phát triển lâu đời. Với ý nghĩa thực tiễn của nó, KĐCLGD đánh giá hiện trạng các cơ sở giáo dục theo tiêu chuẩn đề ra, tìm các điểm mạnh điểm yếu của CSGD, từ đó phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu để phát triển nhằm nâng cao CLGD của các CSGD

1.1.2. Tại Việt Nam

Tại Việt Nam sau khi Cục Khảo thí Kiểm định chất lượng giáo dục được thành lập theo Nghị định số 85/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Bộ GDĐT lựa chọn KĐCL như một biện pháp chính thức để nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác này đã được khẳng định về mặt pháp lý thông qua Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục [8]. Bộ GDĐT quy định: “Kiểm định chất lượng giáo dục trường là hoạt động đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ GDĐT quy định đối với trường ở từng trình độ đào tạo” (Quyết định số 76/2007/QĐ-BGDĐT ngày 14/12/2007 của Bộ trưởng Bộ GDĐT). Ngày 31/12/2008 Bộ GDĐT ra Quyết định số 83/2008/QĐ-BGDĐT Ban hành Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông. Ngày 08/9/2009 Bộ GDĐT ra công văn số 7880/BGDĐT- KTKĐCLGD về hướng dẫn tự đánh giá cơ sở giáo dục phổ thông nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên về công tác đánh giá và kiểm định CLGD.

Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, Nguyễn Đức Chính (2002) trong công trình “Kiểm định chất lượng trong giáo dục” [7] đã trình bày rất rõ các khái niệm liên quan đến thuật ngữ KĐCLGD. Nghiên cứu này đã đi sâu, chi tiết các phương pháp, kỹ thuật, quy trình, cơ chế, chính sách KĐCLGD ở các nước Châu Âu, Hoa Kỳ, Châu Á Thái Bình Dương.

Tháng 11/2005, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục tổ chức seminar khoa học “Những tiêu chí và chỉ số cơ bản của CLGD” trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn về CLGD và đánh giá CLGD”. Seminar đã đưa ra một báo cáo cụ thể về “Những tiêu chí và chỉ số cụ thể của CLGD cấp hệ thống”. Ngoài ra, có rất nhiều sáng kiến kinh nghiệm của các cán bộ quản lý liên quan tới công tác kiểm định chất lượng giáo dục trường THCS như: Phan Quốc Cường (2016) Biện pháp quản lí hoạt động tự đánh giá trong KĐCLGD ở các trường THCS Huyện Đắc Tô, tỉnh Công Tum.Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục, NXB Giáo dục; Lê Đức Ngọc (2009), Tổng quan về kiểm định và đảm bảo chất lượng về giáo dục phổ thông, Tài liệu tập huấn về KĐCLGD phổ thông - Bộ Giáo dục và Đào tạo [7]; Phạm Anh Đức (2014), Quản lý hoạt động tự đánh giá của Hiệu trưởng các trường THCS ở thành phố Thái Bình, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục - Trường ĐH sư phạm Thái Nguyên [12]; Lê Đức Ngọc (2009), Tổng quan về kiểm định và đảm bảo chất lượng về giáo dục phổ thông, Tài liệu tập huấn về KĐCLGD phổ thông - Bộ Giáo dục và Đào tạo [16]; Lê Trường Sơn (2014), “Các biện pháp nâng cao chất lượng thực hiện tự đánh giá công tác kiểm định chất lượng trường THCS tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015-2020”, Đề án tốt nghiệp cao cấp chính trị - Học viện Chính trị khu vực I [18].

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Chất lượng

Chất lượng là một khái niệm quen thuộc từ lâu, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Vì thế cần phải làm rõ khái niệm về chất lượng.

Tùy theo đối tượng sử dụng, từ “chất lượng” có ý nghĩa khác nhau. Người sản xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các quy định và yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Do đó con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.

Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn chất hóa ISO đưa ra định nghĩa sau:

Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.

Từ định nghĩa rút ra một số đặc điểm của khái niệm chất lượng:

- Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm vì lý do nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém… Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà quản lý chất lượng định ra chính sách, chiến lược kinh doanh của mình.

- Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu mà nhu cầu luôn luôn biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng.

- Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta chỉ xét và chỉ xét đến mọi đặc tính của đối tượng liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phia khách hàng mà còn từ phía các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội.

- Nhu cầu cụ thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu chuẩn, nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá trình sử dụng.

- Chất lượng không chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn hiểu hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình và phải có sự kiểm soát chất lượng.

+ Định nghĩa về chất lượng theo Từ điển tiếng Việt phổ thông: Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc) làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác…

- Theo Oxford Pocket Dictionnary: Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản.

- Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/06/2023